ĂN UỐNG VÀ SỨC KHỎE

PHONG BENH HON CHUA BENH

TRI THUC LA SUC MANH

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2011

Học thuyết thiên nhân hợp nhất

HỌC THUYẾT THIÊN NHÂN HỢP NHẤT


    Học thuyết Thiên Nhân Hợp Nhất còn gọi là Quan Niệm Chỉnh Thể. Trong Y học cổ truyền từ xưa, người ta đã quan niệm : Cơ thể con người là một khối thống nhất giữa con người với khí hậu và hoàn cảnh xã hội, phong tục địa phương, có những mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong Y học, học thuyết này được dùng làm chỉ đạo các phương pháp phòng bệnh, gìn giữ sức khỏe, tìm ra nguyên nhân bệnh và đề ra các phương pháp phòng chữa bệnh toàn diện.
1. Quan hệ giữa con người và hoàn cảnh tự nhiên
      Con người là một sinh vật trong vũ trụ, do đó chịu mọi ảnh hưởng và chi phối của vũ trụ.
1.1. Hoàn cảnh tự nhiên
a) Khí hậu thời tiết
     Trong một năm có 4 mùa : xuân, hạ, thu, đông và có sáu khí (Lục khí) : Phong (gió), Hàn (lạnh), Thử (nắng), Thấp (ẩm) (ướt), Táo (khô ráo), Hỏa (nóng), sáu thứ khí này đi theo 4 mùa, tác động đến sức khỏe con người.
     Căn cứ vào chu kỳ nhất định của thời gian, áp dụng phương pháp thống kê, người ta đã xác định được những mùa nào hay có bệnh gì, nhất là bệnh truyền nhiễm.
     Thí dụ : Bệnh Bại liệt thường gặp vào mùa xuân, và cuối hè, sốt xuất huyết hay gặp vào tháng 7, 8... Nguy cơ chết vì đau tim cao nhất về tháng giêng đối với một số nước ở bán cầu phía Bắc...
     Việc quy hoạch được thời gian tính của bệnh tật  giúp đưa đến những biện pháp phòng ngừa, phòng chống dịch bệnh một cách có hiệu quả.
     Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy : Dược liệu thấm nhập vào cơ thể con người cũng theo một chu kỳ riêng. Năm 1959 Halberg đã thí nghiệm cho chích Ouabain (1 hoạt chất kích thích Tim) cho chuột nhắt, thấy  tỷ lệ chết ở các lô tiêm trong khoảng 8-12 giờ rất cao, trái lại, tỷ lệ chết ở lô chích lúc 24 giờ lại rất thấp... Hiểu rõ được thời gian tính của dược liệu, sẽ giúp đưa dược liệu vào cơ thể một cách chính xác hiệu quả ngay cả khi dùng liều nhỏ nhất.
b) Phong tục, tập quán của mỗi địa phương cũng ảnh hưởng rất lớn trong sinh hoạt, cơ thể.
      Miền núi cao, do thiếu lượng I ốt từ biển mang vào, dễ phát sinh bướu cổ. Cuộc sống vội vàng, căng thẳng, của người dân thành thị dễ đưa đến các bệnh loét bao tử, loét tá tràng. Khẩu phần dư thừa mỡ đưa đến các chứng xơ mỡ động mạch, suy  vành tim...
Miền rừng núi, đầm lầy, tạo điều kiện cho muỗi sống, dễ gây ra bệnh sốt rét...
1.2. Hoàn cảnh xã hội
      Điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa của xã hội cũng tác động đến tư tưởng, tình cảm đạo đức của con người.
     - Tại những nước ngoài, người dân có trình độ cao, rất ít khi gặp các chứng bệnh hay lây, thậm chí nhiều nước, bệnh lao phổi, cùi hủi... hầu như không còn có tên trong sách thuốc của họ nữa.
     - Tại những nước điều kiện kinh tế và văn hóa quá yếu kém, người ta thấy tỷ lệ các bệnh suy dinh dưỡng, bệnh về đường ruột rất cao.
1.3. Thái độ của con người
     Các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài, góp phần gây ra những sự xáo trộn, dẫn đến bệnh tật, vì thế, con người cần phải thích ứng, thích ứng với mọi hoàn cảnh, chế ngự và cải tạo thiên nhiên, xã hội... để sinh tồn và phát triển. Muốn vậy, cần phải có sức khỏe, có sự hiểu biết để thích ứng với hoàn cảnh dưới nhiều hình thức phong phú : từ cách nghĩ, cách làm, lối sống đều phải hòa nhịp với tự nhiên, thời đại, có như thế mới sinh tồn và phát triển được.
2. Ứng dụng vào Y học
2.1. Trong chẩn đoán
       Phải biết kết hợp nhiều mặt : Yếu tố bên ngoài (Lục khí : Phong, Hàn, Thử, Thấp, Táo, Hỏa) và yếu tố bên trong (thất tình: vui, buồn, giận, lo, nghĩ, kinh, sợ  ) nắm được thời điểm gây bệnh (theo mùa, theo Ngũ vận Lục khí...), hiểu được hoàn cảnh (giàu nghèo, địa dư, phong tục...).
     Tuy nhiên, chủ yếu phải nhận định rằng : Bệnh tật chỉ xảy ra do sự thay đổi nội tạng, tức là giảm sút sự đề kháng (chính khí hư) làm cơ thể không thể thích ứng được với ngoại cảnh, gây bệnh (tà khí thịnh).
2.2. Trong điều trị
           Trong chữa bệnh, một mặt cần giải quyết nguyên nhân gây bệnh, (đuổi, trục tà khí ra), mặt khác, phải chú trọng đến việc nâng cao sức chống đỡ của cơ thể (phù chính khí).       
      Ngoài ra, còn phải chú ý đến hoàn cảnh tự nhiên (địa dư, khí hậu...) hoàn cảnh xã hội, kinh tế (giàu nghèo, lớn bé), thời điểm phát sinh bệnh... của người bệnh để chọn phương thuốc điều trị cho thích ứng : Uống thuốc, Châm cứu, tập  dưỡng sinh...
2.3. Trong phòng bệnh
  "Phòng bệnh hơn chữa bệnh", đừng để bệnh tật xảy ra rồi mới điều chỉnh, nhưng giữ và phòng sao cho bệnh tật không thể xảy ra hoặc nếu lỡ có xảy ra thì cũng giảm nhẹ hơn.
a) Phòng bệnh tiêu cực :
- Ăn uống, giữ vệ sinh...
- Điều độ sinh hoạt, tình dục, lao động...
b) Phòng bệnh tích cực :
- Thay đổi nếp sống lạc hậu, bỏ những tập quán mê tín.
- Rèn luyện thân thể : Thể dục, Thể thao, Dưỡng sinh...
- Phương pháp rèn luyện sức khỏe đã được danh y Tuệ Tĩnh tóm tắt trong câu :
"Bế tinh, Dưỡng khí, Tồn thần,
Thanh tâm, Quả dục, Thủ chân, Luyện hình".
3. Kết luận
        Qua 3 Học thuyết : Âm dương, Ngũ hànhThiên Nhân Hợp Nhất, Y học cổ truyền dân tộc đi đến quan niệm toàn diện, thống nhất, chỉnh thể trong công tác phòng và trị bệnh. Con người ở thể thống nhất toàn vẹn giữa các chức phận, tinh thần và vật chất, cá nhân và hoàn cảnh bên ngoài, để tìm ra các mâu thuẫn xáo trộn trong quá trình bệnh lý và giải quyết các mâu thuẫn đó bằng phương pháp tích cực và đúng đắn nhất.
      Con người là qúy nhất trong trời đất, không thể không xứng đáng đứng giữa trời đất. Muốn xứng đáng đứng trong trời đất, phải biết hòa hợp với thiên nhiên, vũ trụ, với mọi người.
      Hiện nay, theo Tổ chức y tế thế giới (OMS - WHO) thì sức khỏe được hiểu không chỉ là không bệnh tật mà còn bao hàm một cuộc sống thoải mái về tinh thần, thể chất và xã hội. Điều này cho thấy, người ta đã quan tâm đến con người một cách toàn diện (thể chất, tinh thần và môi trường xã hội).


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Tổng số lượt xem trang