“Vấn nạn” giáo dục đến từ “tư duy kinh kệ”
Tôn Thất Nguyễn Thiêm
Bài này đăng đã lâu trên tạp chí Tia Sáng. Nhưng xem ra lối giáo dục của ta cũng chẳng có mấy thay đổi. Tôi thường cảm thấy lo lắng cho cách dạy và học ngày nay. Các cháu từ lớp 1 đã phải đi học thêm, học nhồi, học nhét. Về nhà tối lại còn làm biết bao nhiêu bài tập, mặc dù đã học cả 2 buổi ở trường. Thương con trẻ quá! Có bài toán lớp 2( cô cho về nhà) mà ông phải nghĩ mãi mới giảng được cho cháu. Lối giáo dục theo tư duy kinh kệ vẫn phổ biến thì sao mà có nhiều người tài được! Buồn thay! Buồn thay!
Hãy khởi đầu bằng mấy để giải quyết các vấn đề nêu ra chỉ sự việc: Cách đây hơn 30 năm (1973), một nhà G.Anderla, đã tính toán là tri thức của nhân loại được nhân lên gấp đôi mỗi 6 năm. Cách tính của Anderla như sau: cho rằng tổng số lượng kiến thức về khoa học của toàn nhân loại là một đơn vị vào năm thứ nhất trước công nguyên thì đơn vị ấy được nhân lên gấp đôi vào năm 1500. Phải đến hơn hai thế kỷ rưỡi sau vào năm 1750 - số lượng tri thức đó mới được nhân gấp hai. Và cấp số nhân đôi ấy có những chặng thời gian sau: 1900, 1950, 1960, 1976 và 1973. Nói gọn: Kể từ thập niên 60 của thế kỷ XX, kiến thức khoa học của nhân loại chỉ cần khoảng thời gian dưới 7 năm để tăng gấp đôi. Và thời gian ấy càng ngày càng được thu ngắn.
Trong chiều hướng ấy, sẽ chẳng có gì ngạc nhiên khi số liệu thống kê có từ các nước phát triển cho biết, kế từ 1995, trung bình tối thiểu mỗi ngày (đúng là mỗi ngày!) có ít nhất là 4.000 tựa sách khoa học không chỉ được phát hành mà còn được bổ sung vào thư mục ở các thư viện của các đại học và trưng tâm nghiên cứu.
Thêm một sự kiện: hơn 10 năm trước (1993), kết quả được công bố của một công trình nghiên cứu kéo dài suốt 15 năm đã gây một chấn động trong giới giáo dục đào tạo ở Mỹ trong lứa tuổi từ 3 -5 tuổi, 98% thiếu nhi có những sáng tạo độc đáo trong cách tiếp cận và giải đáp những vấn đê được đặt ra từ nhiều dạng câu hỏi. Nhưng đầu óc sáng tạo ấy lại giảm dần theo thời gian: từ 8 đến 10 tuổi, tỷ lệ chỉ còn là 32%. Và từ 13 - 15 tuổi, chỉ còn 10%. Và điều đáng nói là đối với 200.000 người trên 25 tuổi cỏ trình độ học vấn và bằng cấp cao, trước những câu hỏi cùng hình thức và nội dung, tỷ lệ sáng tạo độc đáo để giải quyết các vấn đề nêu ra chỉ còn là 2%.
Đặt các số liệu trên bối cảnh “trồng người" ở đất nước ta nhằm gợi lên một số "vấn nạn”:
Trước tốc độ tiến bộ đến chóng mặt của kiến thức nhân loại, học cơ bản là để "Biết " hay để "Hiểu”? Câu hỏi đã hàm chứa câu trả lời: tiếng Việt ta, trong từ "Hiểu biết ", "Hiểu” được đặt trước "Biết"! Quan niệm ấy, vô hình chung, rất thích ứng với tiến độ phát triển của khoa học: sẽ chẳng bao giờ có thể "biết" hết được tri thức mỗi ngày mỗi mới! Do đó, "hiểu” mới mang đến cho ta khả năng (may ra!) vận dụng những kiến thức tiếp thu được một cách nhuần nhuyễn và sinh động. Từ đó, dễ dàng thấy ngay sự vô cùng nguy hại của việc học theo kiểu “nhồi nhét" và "thầy đọc trò chép".
Tại sao cơ bản lại xảy ra điều “nhồi” và "nhét", “đọc" và "chép" nói trên? Ngẫm cho kỹ, tiến trình ấy đến từ "tư duy kinh kệ” (kinh kệ là chữ dùng chính xác hơn so với kinh điễn) “sợ sai" so với các "bài bản, giáo trình, đề cương, huấn thị". Thêm nữa, "sợ sai" còn ảnh hưởng rất nhiều đến tinh thần trách nhiệm của người giảng dạy trong việc tìm tòi, nghiên cứu: tư duy khoa học đòi hỏi một đầu óc khai phá, nghĩa là một tư thế sẵn sàng chấp nhận là mình sai! Vì thế, "sợ sai" là vật cản tâm lý chứ không phải là một động lực thúc đẩy tiến trình tìm hiểu và khám phá trong khoa học!
Đầu óc sợ sai và và thiếu hụt về tinh thần trách nhiệm nói trên, không cần dài dòng, và cũng hiểu ngay là được san sinh từ một cơ chế Nhà nước cứng nhắc trong việc tổ chức giáo dục đào tạo. Tuy nhiên, cũng đừng quá ảo tưởng: xóa bỏ độc quyền của Nhà nước trong lĩnh vực gián dục đào tạo và càng ngày càng mở rộng cơ chế dân lập tự quản không có nghĩa là tri thức nước nhà đương nhiên được cải tiến nếu trong tư duy giảng dạy và phương pháp học tập vẫn còn phổ biến đâu óc độc đoán!
Độc đoán cơ bản đến từ một quan niệm xưa cũ về vai trò của người thầy: dựa vào khuôn mẫu “nửa chữ cũng là thầy", người dạy trong bối cảnh của kiến thúc khoa học của thế giới mỗi ngày một tăng và đổi mới mang trong tiềm thức của mình một oái oăm ghê gớm! Đó là một "mặc cảm tự ti" trá hình thành một loại "tụ tôn” để che giấu những khiếm khuyết của mình! Nói cách khác, nhằm che đậy mặc cảm ấy, người dạy chọn phương pháp "tối ưu nhất" là cứ "theo bài bản mà truyền” và "theo giáo trình mà đọc"! Gọn: không thể sai vào đâu được khi mọi thứ thầy dạy đều đã có trong sách! Mà đã không sai thì không có gì để có thể đào sâu tranh luận! "Kinh" du biến thành "kinh" khi có nhiều người cứ thế "kệ"! Mà càng có nhiều "kinh kệ" thì hệ quả tất yếu là sự phát triển ngày càng nhiều của đâu óc độc đoán! Quên mất rằng ở thời buổi bùng nổ tri thức, hàng vạn chữ cũng chưa "thấm thía" gì huống hồ chỉ là "nửa chữ". Nhất là trong tiếng Việt ta "chữ" van thường phải đi liền với "nghĩa": "chữ nghĩa"! Chữ chỉ là một âm sắc vô hồn nếu nó vô nghĩa? Vì thế, không ít thầy che cái "vô nghĩa" của "con chữ" mình giảng truyền hằng cung cách độc đoán!
Thầy đã thế thì trò khó mà khác được! Nói gọn: thầy đã sợ sai, sợ trách nhiệm và độc đoán thì trò nào dám nói ngược lại thầy. Do đó, dù có bỏ cơ chế độc quyền trong giáo dục đào tạo thì đầu óc và tâm lý độc quyền vẫn cứ trường tồn và phát triển nếu người giảng dạy không dám lấy trách nhiệm phát huy ở người học tinh thần dám đương đầu với cái sai để luôn luôn hướng về việc tìm kiếm cái đúng!
Trong một nền giáo dục mà tính chủ thể của cá nhân con người được đề cao đến như ở Mỹ mà kết quả chỉ 2% những người có học vấn và bằng cấp cao là có được đầu óc sáng tạo thì vấn đề ấy còn gay gắt đến mức độ nào trong một cơ chế tâm lý xã hội mà đầu óc độc quyền, độc đoán, sợ trách nhiệm và sợ sai vẫn còn phổ cập?
Tuy nhiên, vấn đề trên có thể được hình dung theo một chiều hướng khác: với một đất nước có một dân số gồm nhiều lớp trẻ đầy năng động, nếu đường lối giáo dục đào tạo biết phát huy đầu óc sáng tạo và khai phá trong khoa học thì đất nước ấy sẽ có thêm được một khả năng để phát triển so với những đất nước dù đã có nhiều thành tựu về kinh tế nhưng tháp dân số lại càng ngày càng già cỗi và xã hội đã vơi đi khá nhiều ước vọng chính đáng về ý nghĩa hạnh phúc của kiếp nhân sinh!
Theo Tạp chí Tia sáng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét