Chúc mừng Năm Mới 2013
Chúc bạn đọc sức khỏe dồi dào, hạnh phúc, thành đạt.
ĂN UỐNG VÀ SỨC KHỎE
PHONG BENH HON CHUA BENH
TRI THUC LA SUC MANH
TRI THUC LA SUC MANH
Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012
Thứ Bảy, 29 tháng 12, 2012
Chữa ho bằng vỏ bưởi
Bạn nên giữ lại vỏ khi ăn bưởi vì vỏ bưởi có thể chữa được
khá nhiều chứng bệnh hay gặp, chẳng hạn như ho, hen...Dưới đây là một số cách
chữa bệnh bằng vỏ bưởi.
Chữa ho có nhiều đờm: Vỏ bưởi 10 gr, thêm đường kính, hấp uống dần dần.
Chữa sản giật: Vỏ bưởi khô và ích mẫu bằng nhau tán nhỏ, uống mỗi lần 8 gr với rượu vào lúc đói hoặc dùng mỗi vị 20 - 30 gr sắc uống.
Chữa hen: Vỏ bưởi (lấy ở quả bưởi từ 0,5 - 1 kg), một miếng bách hợp, 120 gr vảy hành khô, đường trắng 120 - 250 gr, nấu nước uống, chia làm ba lần uống trong ngày, liên tục trong 9 ngày.
Chữa phù thũng: Vỏ bưởi đào, mộc thông, bồ hóng mỗi vị 20-30 gr, diêm tiêu 12 gr, cỏ bấc 8 gr, sắc uống mỗi ngày hai lần vào lúc đói và ăn một khẩu mía trước và sau khi uống thuốc. Kiêng muối và chất mặn.
Nguồn tin: Theo
Tintuconlinecom.vn
Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012
Đương Quy Tửu cải biên
- Trứng gà luộc chín 2 quả, bỏ lòng trắng, lấy lòng đỏ.
- Gừng thái lát, phơi
khô, sao cháy ( mặt ngoài xém đen nhưng bẻ ra mặt trong vẫn còn màu vàng), đem
nghiền thành bột mịn; Muối hạt rang hết nổ lượng vừa đủ. Hai thứ này đem nghiền
thành bột mịn làm thành muối gừng(ước lượng sao cho lượng muối trộn với gừng
sao khi ăn không mặn).
Cách dùng:
Mỗi ngày lấy 2 lòng
đỏ trứng gà đã luộc chín, chấm với 1 thìa nhỏ bột muối gừng ăn.
Tác dụng:
Bổ máu, tăng huyết
áp (ôn bổ Tỳ, Thận ).
Tôi ứng dụng bài
thuốc này của Cụ Định Ninh Lê Đức Thiếp ( một danh y của Việt Nam, nguyên là
Chủ Tịch Hội Đông Y thành phố Hồ Chí
Minh những năm 70 của thế kỷ 20) đã nhiều năm thấy có tác dụng rất tốt đối với trường hợp người xanh gầy, huyết áp thấp,
chân tay lạnh, kém ăn. Người bệnh thường dùng sau 10 ngày da mặt đã hồng hào,
người khỏe hơn trước nhiều.
Phân tích bài thuốc:
Lòng đỏ trứng gà
rất bổ máu, dùng còn hay hơn Đương Qui. Gừng sao đen và muối dẫn chất dầu của
lòng đỏ trứng gà vào Thận. Ngoài ra gừng sao còn làm ấm Tỳ. Chính vì vậy toàn
bài này ôn bổ Tỳ Thận rất tốt.
Vương Văn Liêu
Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012
Lọc máu và tẩy
độc cơ thể
bằng Trà PHAN TẢ DIỆP
Tên khoa học Cassia angustifolia Vahl. Tên tiếng Anh
là Senna, tiếng Pháp là folioles de Séné.
Là một lá nhỏ mầu
vàng nhạt, vân nâu, có chứa các chất anthranoid tự do, anthraglycosid,
glucosenosid A,B, isorhamnetin, kaempferol, phytosterol, saponin, alcol
myricic, pinitol, acid hữu cơ, polysaccharide..
Nó có tính khí hàn,
vị ngọt đắng, không độc, vào kinh Đại trường dùng tả nhiệt, thông lợi đại tiểu
tiện, giải nhiệt độc, thông thực tích đọng trệ trong ruột.
Có tác dụng kích
thích tiêu hóa với liều dùng 1-2g/ngày
Có tác dụng nhuận
trường với liều thấp 3-4g/ngày chữa táo bón, ăn không tiêu, tích trệ đầy bụng.
Có tác dụng gây xổ
với liều 5-7g/ngày gây đau bụng tiêu chảy.
Dịch ngâm Phan Tả
Diệp không ảnh hưởng đến bao tử và ruột non, chỉ làm tăng co bóp nhu động ruột
già làm nát phân gây đau bụng tiêu chảy do chất gây xổ là sennosid A,B.
Anthraglucosid được bài tiết qua nước tiểu và sữa, do đó người mẹ cho con bú mà
dùng Phan Tả Diệp, con cũng bị tiêu chảy.
Có tác dụng kháng
khuẩn Bacillus dysenteriae, streptococcus loại A, Enterococcus, bệnh nấm ngoài
da.
Đối với những người
bị bệnh gan như vàng da, xơ gan, áp xe gan, viêm gan Hepatitis A,B,C,E hay ung
thư gan.. sẽ có dấu hiệu chán ăn và khi xét nghiệm chỉ số men gan SGOT và SGPT
(serum glutamic oxaloacetic transaminase và serum glutamic pyruvic
transaminase) tăng cao hơn bình thường gấp 2-5 lần làm tiêu hủy tế bào gan.
Dấu hiệu khỏi bệnh
khi nào thử chỉ số men gan giảm. Tất cả các bệnh gan sau khi uống Phan Tả Diệp
với liều cao 12g/lần, ngày uống 2 lần, bỏ Phan Tả Diệp vào 1 ly nước sôi ngâm
30 phút, hay nấu sôi cho thuốc thấm ra trở thành nâu hồng đậm, uống hết 1 lần
một ly, vẫn ăn uống bình thường, khi đi cầu ra phân đen lỏng tiêu chảy, tiếp
tục uống cho đến khi đi phân dễ dàng và phân không lỏng nát nữa mà trở lại phân
dẻo, mầu vàng, thì ngưng. Khi đi thử men gan SOGT, SOPT giảm xuống bình thường
thì khỏi bệnh.
Như vậy Phan Tả
Diệp cũng còn có tác dụng lọc máu tẩy độc trong gan và tống độc xuống ruột gìa
đẩy ra ngoài, các bệnh sốt do nhiễm khuẩn, nhiễm trùng nhờ uống Phan Tả Diệp để
tả nhiệt độc cũng làm lui cơn sốt.
Có tác dụng cầm máu
với liều 1g/lần, ngày 3 lần sẽ làm tăng số lượng tiểu cầu, fibrinogen, rút ngắn
thời gian đông máu.
Tây y có bán thuốc
viên Phan Tả Diệp dưới tên Senna Laxatif.
Cấm kỵ:
Trường hợp táo bón
do thắt cơ ruột viêm ruột gìa, đàn bà có thai, và những người thường có bệnh
tiêu chảy không được dùng.
Chỉ dùng Phan Tả
Diệp khi bụng đã ăn no mà không tiêu, khó đi cầu, nếu bụng trống rỗng mà uống
Phan Tả Diệp sẽ vô ích, mà chỉ làm nhu động ruột co bóp khiến bị mót muốn đi
cầu nhưng không có phân ra sẽ làm khó chịu.
Chúng ta, bình
thường vào cuối tuần tối thứ sáu và tối thứ bảy, mỗi tối ngâm 4g Phan Tả Diệp
vào 1 ly nước sôi trong 30 phút rồi uống như nước trà để nhuận trường xổ độc đi
ra hết phân đen thối ứ đọng trong cơ thể khoảng 3-4 lần trong ngày, trước khi
đi cầu, bụng hơi đau âm ỉ nhẹ chừng 1-2 phút làm buồn đi cầu, nó có tính chất
lọc máu trong gan, tiêu hủy men gan làm hạ thấp chỉ số men gan SOGT, SOPT xuống
bình thường tránh được bệnh về gan. Là một loại trà dùng để nhuận trường và xổ
độc an toàn. Khi cơ thể hết độc, khi đi cầu, phân ra sền sệt mầu vàng, không bị
tiêu chảy nữa thì ngưng.
Đỗ Đức Ngọc
Nguồn:Khí Công Y Đạo Việt Nam
Chủ Nhật, 23 tháng 12, 2012
7 lý do nên ăn thịt bò
|
||
Ăn thịt bò
thực sự không tốt? Nó là nguyên nhân dẫn tới các bệnh như đột quỵ, nhồi máu
cơ tim và ung thư? Nhưng tại sao nó vẫn có mặt trong thực đơn hằng ngày của
những người ăn kiêng? Vậy đâu là sự thật?
1.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng nếu tổ tiên của chúng ta không ăn các
loại thịt có màu đỏ thì kích thước bộ não của con người chỉ bằng 1/4 so với
hiện tại.
Trong
suốt quá trình tiến hoá của loài người, chính nhờ thường xuyên được cung cấp
một lượng protein và chất béo đầy đủ từ các loại thịt đỏ mà con người mới có
thể có được một trí não thông minh và phát triển như bây giờ.
Nếu
không có thịt, chúng ta hẳn vẫn chỉ sống trên cây và ăn chuối mà thôi!
2.
Ở những vùng nơi mà người dân có tuổi thọ trung bình cao, thực đơn hàng ngày
của họ vẫn là thịt của gia súc và các sản phầm từ sữa.
3.
Protein trong thịt bò và thịt cừu chính là những “vật liệu” để xây dựng nên
một cơ thể vững chắc, bảo đảm cho hệ cơ luôn khỏe mạnh cũng như duy trì lượng
hormon có lợi trong cơ thể.
4.
Các loại thịt đỏ là nguồn cung dồi dào các khoáng chất như kẽm, sắt và magiê
cho cơ thể. Hơn nữa, các hợp chất này dễ hấp thu hơn nhiều so với các loại
khoáng chứa trong ngũ cốc và hạt đậu.
5.
Vitamin B12, một loại vitamin chỉ được tìm thấy trong các loại thịt và có rất
nhiều trong thịt bò, sẽ quyết định “sức khoẻ” của hệ thống thần kinh và cũng
rất tốt cho máu.
6.
Ngoài ra khoáng chất carnitin có trong các loại thịt màu đỏ rất cần thiết cho
sự cân bằng của các hoạt động của tai.
7.
Chất béo có trong thịt bò và thịt cừu rất giàu linoleic và palmiotelic, hai
loại axit đặc biệt giúp con người chống lại căn bệnh ung thư, các loại vi rút
và mầm bệnh.
Mai Liên
Theo AWT
Nguồn: Dân Trí
|
Thứ Năm, 20 tháng 12, 2012
Kỳ 46. Chữa bệnh bằng máy sấy tóc
BS Huỳnh Hải
==========================
=========================
Kỳ 46
HÔN TRẦM
Trường hợp đang ngồi thiền ( tư thế kiết già, bán già, hay tư thế
mông trên gót như hình trên ), nếu các bạn cứ lim dim buồn ngũ ( trạng thái hôn
trầm ) không tỉnh táo được hảy cứ cúi người xuống thở ra, ngồi thẳng dậy hít
vào, rồi lại tiếp tục nhiều lần. Sau một lúc khi lượng oxy để cung cấp cho não đầy đũ thì sự tỉnh táo sẽ
trở lại và các bạn có thể hành thiền
tiếp tục
BÀI TẬP TỰ KÉO CỔ TƯ THẾ NGỒI ĐỂ CHỮA TÊ TAY, HẸP LỔ LIÊN HỢP CỘT
SỐNG CỔ
Khi bạn bị tê cánh tay hoặc bàn tay
có thể do một hoặc kết hợp những nguyên nhân sau đây: hội chứng ống cổ
tay, rối loạn lipid máu ( mở trong máu cao ), chèn ép thần kinh cổ cánh tay (
có hình minh họa )… Những hướng dẩn và bài tập sau đây có thể giải quyết tình
trạng chèn ép thần kinh cổ cánh tay do ngồi làm việc, nằm ngũ gối quá cao, tư
thế không đúng trong giai đoạn nhẹ và trung bình:
-
Khi
nằm ngồi đứng cột sống phải thẳng, cổ luôn ở giữa 2 vai, 2 vai phải ngang bằng
nhau
-
Nên
ngũ gối thấp để cột sống cổ và cột sống ngực thẳng hàng
-
Không
cúi gập đầu khi làm việc
-
Không
nằm võng
-
Và các
bạn chỉ cần tập một động tác là: Ngồi thẳng, 2 tay xuôi hai bên thân,
cột sống thẳng. Từ từ tự kéo đầu và cột sống cổ thẳng lên trên ( giữ yên tư thế
này trong 3 tiếng đếm ). Sau đó buông lỏng. Tập mỗi ngày 3 lần mỗi lần 15 động
tác. Cuối cùng xoa bóp vùng gáy
Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012
ĐO HUYẾT ÁP- VIỆC LÀM ĐẦU TIÊN
để
KHÁM BỆNH VÀ ĐỊNH BỆNH
theo Khí Công Y Đạo
để
KHÁM BỆNH VÀ ĐỊNH BỆNH
theo Khí Công Y Đạo
Theo Tây y huyết áp của một người nằm trong giới hạn lớn hơn hoặc bằng
90/60 mmHg và nhỏ hơn hoặc bằng 140/ 90 mmHg, nhịp tim từ 60- 80 lần/ phút coi
là bình thường. Nếu HA nhỏ hơn 90/60 mmHg coi là huyết áp thấp và lớn hơn 140/
90 mmHg coi là huyết áp cao.
KCYĐ quan niệm khác: Huyết áp coi như khí lực
trong cơ thể con người, do vậy huyết áp
phải phụ thuộc vào lứa tuổi.
Cách chữa đúng gốc bệnh cần phải bổ sung khí
huyết cho cơ thể đầy đủ, kết qủa điều trị phải được kiểm chứng bằng máy đo
huyết áp lọt vào tiêu chuẩn lứa tuổi thì bệnh mới mau khỏi.
Nếu ở
những độ tuổi tương ứng, người mà
có huyết áp cao hơn tiêu chuẩn gọi là huyết áp cao, chứ không phải theo Tây y trên
140 mmHg mới là huyết áp cao. Thí dụ trẻ
12 tuổi có huyết áp 130 mmHg là huyết áp ở tuổi trung niên, đối với tuổi
thiếu nhi là bị bệnh huyết áp cao, chính
điều này đã giải thích được tại sao trẻ em sẽ có hậu qủa như chảy máu cam, sốt
tê liệt, động kinh, bại não, tăng nhãn áp làm mắt trợn ngược.
Nếu
người trong hạn tuổi trung niên hay lão niên, có huyết áp thấp hơn tiêu chuẩn
qúa nhiều, chỉ bằng thiếu niên hay thiếu nhi, Tây y cho là tốt nhưng đối với
Đông y, khi khám bệnh bằng bắt mạch vẫn cho là thiếu khí huyết. Hậu qủa huyết áp thấp so với tuổi dẫn đến cơ thể suy
nhược từ từ, thiếu máu đi nuôi khắp cơ thể sinh ra bệnh đau nhức, thiếu máu
nuôi xương cốt sinh thoái hóa khớp, đĩa đệm, thiếu khí huyết lên đầu sinh chóng
mặt, hay quên, mắt mờ, tai lãng, kém ăn, mất ngủ là những bệnh thông thường của
bệnh huyết áp thấp chứ không riêng gì
của tuổi già. Nặng hơn nữa, giống như một cây lớn không đủ nước nuôi cây, cây
sẽ khô héo, lá cành không đủ nhựa, lá rụng, cành gẫy, nhựa cây khô tắc khiến
cây có nhiều cục u, trong cây rỗng. Con người cũng vậy, cơ thể có những bướu
nội tạng do khí huyết tắc nghẽn, nếu tắc nghẽn trên đầu do thiếu khí huyết gọi
là bệnh thiên đầu thống (migrain) hay bướu trên đầu, Tây y gọi là bướu não,
nghĩa là nửa đầu do khí huyết tắc không lên đầu, đau nhức bên trong đầu, dùng
ngón tay gõ bên ngoài bệnh nhân không có cảm giác đau, còn nửa đầu bên kia khí
huyết thông không bị đau, khi gõ vào da đầu có cảm giác (khác với trường
hợp huyết áp cao bị nhức đầu khi gõ vào
da đầu cảm thấy đau). Nếu có bướu trong nội tạng gọi là ung thư như ung thư Bao
tử, gan, lá lách, phổi, ruột, thận, xương, hạch…, nếu ung thư toàn thân gọi là
ung thư máu.
Theo Tây y,
nhiều người ở tuổi trung niên trở lên, có
huyết áp ở mức 100-110,Tây y đều cho là thật tốt, qúa lý tưởng, có biết
đâu rằng nó chính là thủ phạm gây ra đau nhức mỏi như phong thấp, còn trong cơ
thể có những bệnh do hậu qủa của huyết
áp thấp kể trên Tây y lại xem là chuyện khác không liên hệ gì với huyết áp.
KCYĐ đã chứng minh được
bằng thực nghiệm huyết áp trong cơ thể
con người phụ thuộc vào nhiều yếu tố chứ
không phải chỉ có áp lực của tim, trong đó có khí của Lục phủ, Ngũ tạng. Từ cổ
xưa Đông y cũng đã biết được khí của Tạng Phủ đều đi qua ống mạch ở cổ tay, do
vậy thông qua bắt mạch cổ tay người ta biết được bệnh của các Tạng, Phủ.
Huyết áp ở tay trái phụ thuộc vào khí
của tạng Tâm và Bao tử, huyết áp ở tay
phải phụ thuộc vào khí của tạng Tâm và Can.
Đo huyết áp hai tay trước và sau
khi ăn 30 phút còn tìm ra được sự chuyển hóa đúng, sai của chức năng Bao tử và
Can.
Khi đo huyết áp ở chân, số tâm thu của
huyết áp ở chân bình thường cao hơn từ
10 đến 20 mmHg so với ở tay là tốt , còn
số đo tâm trương có thể giống như ở tay và biểu hiện cho sự dãn nở của van tĩnh
mạch chân. Khác với tay, chân là bộ phận xa tim nhất, nên máu đi xuống chân
phải qua hệ thống các van tĩnh mạch một chiều mới trở về tim được. Khi van tĩnh
mạch hoạt động không hiệu quả thì máu đen trở về tim khó khăn, dẫn đến tình
trạng máu đỏ không thể dễ dàng đưa xuống chân, do đó chân sẽ dần bị tê liệt.
Khí Công Y Đạo
không những dùng máy đo để biết huyết áp
như Tây y, nhưng chỉ theo kết qủa của Tây y mà không biết nguyên nhân nào đã
làm huyết áp thay đổi, thì không thể nào có cách chữa đúng vào gốc bệnh được.
Cho nên
Khí Công Y Đạo đặt giả thuyết số thứ nhất là số chỉ về khí, số thứ hai chỉ về
sự đàn hồi của van tim, số thứ 3 chỉ về huyết.
Tâm thu lớn hơn tiêu chuẩn tuổi là khí thực, bé hơn tiêu
chuẩn tuổi là khí hư.
Tâm trương lớn hơn tiêu chuẩn tuổi là hở van tim, giống
như cánh cửa mở qúa rộng, nhỏ hơn tiêu chuẩn tuổi là hẹp van tim, giống như cửa
đóng qúa chặt.
Số nhịp tim lớn hơn tiêu chuẩn là nhiệt, gọi là âm huyết
thực, nhỏ hơn tiêu chuẩn là hàn gọi là âm huyết hư.
Theo một định đề khác của Đông y, chỗ nào có máu chạy đến thì chỗ đó
nóng ấm, chỗ nào máu không chạy đến đủ thì chỗ đó lạnh.Vương Văn Liêu
Thứ Tư, 12 tháng 12, 2012
Kỳ 45. Chữa bệnh bằng máy sấy tóc
BS Huỳnh Hải
------------------------------------------
------------------------------------------
Kỳ 45
VỔ BẰNG LÒNG BÀN TAY LÊN KHẮP CƠ THỂ
Sau khi tập hít thở, xoa bóp các bạn nên dùng lòng bàn tay để vổ
lên toàn bộ cơ thể, nhất là vổ lên tất cả các khớp. Đầu tiên là bạn dùng 2 lòng
bàn tay để vổ nhẹ nhàng khắp đầu, trán, mặt, hai gò má, vổ lên trùm lên hai tai
và vùng chẩm, gáy, cổ, ngực, bụng, hông , hai tay, mông, háng, chân và cuối
cùng dùng hai lòng bàn tay để vổ mạnh lên hai bàn chân. Mục đích để tăng sự
dinh dưởng, tuần hoàn khắp cơ thể. Sau các động tác, hít thở và xoa bóp thì
động tác dùng lòng bàn tay vổ lên toàn bộ cơ thể giúp các bạn có được một cảm
giác sảng khoái, sung mãn như vừa nạp năng lượng
ĂN UỐNG CHO SỨC KHỎE
Ăn uống vô cùng quan trọng. Thức ăn uống đã giúp con người phát
triển từ sơ sinh đến trưởng thành. Nhưng phần lớn các bệnh cũng bắt nguồn từ ăn
uống. Không phải say sưa nhậu nhẹt thường xuyên. Không phải ăn uống không đũ
chất dinh dưởng. Cũng không phải ăn dư thừa chất béo động vật, chất ngọt, quá
nóng, quá lạnh… Người xưa đã ý thức được điều này và đã có câu : Bệnh tùng khẩu
nhập. Ăn uống phải dựa vào khoa học :
-
Thực
phẩm thiên nhiên ( hạn chế hóa chất như phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc bảo
quản, màu và vị hóa học… )
-
Tỷ lệ
các chất bột, rau trái cây, đạm, béo đường muối từ nhiều ( phần thấp của tháp
dinh dưỡng ) đến rất ít ( phần cao nhất của tháp dinh dưỡng )
-
Nên ăn
các thức ăn cốc loại còn nguyên vỏ ngoài chưa xay xát như gạo lứt…
-
Chú ý
hạn chế tối đa lượng chất ngọt, mặn và chất béo xấu ( mỡ động vật, bơ, phô mai,
sữa béo, da, đồ lòng, lạp xưởng…)
-
Nhai
thật nhuyển thức ăn
-
Ăn
đúng bữa
-
Thức
ăn uống không nên quá nóng hay quá lạnh
-
Uống
nước mỗi ngày trên 2 lít
-
Không
xử dụng hoặc rất ít các thứ sau: trà, cà phê, rượu, bia, thuốc lá
-
Tránh
xa các chất vô cùng độc hại như á phiện, heroine, Ecstasy ( thuốc lắc )
-
Chú ý
sự phản ứng của cơ thể mình đối với từng loại thực phẫm
HAI ĐỘNG TÁC LÀM
HẾT BUỒN NGŨ
Nhiều khi thức
giấc, cơn ngáy ngũ vẫn còn. Nếu ngay lúc đó các bạn muốn không còn buồn ngũ nữa
thì ngay trên giường các bạn có thể thực hiện 2 động tác sau :
-
Vươn
vai nhiều lần ( Hít vào đồng thời duổi tay lên trên, hai chân kéo thẳng xuống
dưới. Thở ra 2 tay bỏ xuôi thân mình )
-
Xoay
khớp gối và háng theo vòng tròn nhiều lần ( sau đó xoay ngược lại )
Thứ Sáu, 7 tháng 12, 2012
Cây Mướp chữa bệnh mũi
Dây gốc mướp đốt tồn tính, tán nhỏ, mỗi lần uống 10 gr, ngày uống 3 lần, có thể uống thêm với rượu 1 chén con.
Chủ trị:
-Trong xương tủy như có sâu bò.
- Viêm xoang mũi.
- Mũi tắc, mũi ngứa, mũi chảy nước, khịt mạnh như có mùi ốc thối.
Chú ý: Gốc mướp lấy từ mặt đất lên độ 1 m, thái miếng, phơi khô;
Vị ngọt, tính bình không độc; Có tác dụng chữa bệnh ở mũi.
Vương văn Liêu
Dây gốc mướp đốt tồn tính, tán nhỏ, mỗi lần uống 10 gr, ngày uống 3 lần, có thể uống thêm với rượu 1 chén con.
Chủ trị:
-Trong xương tủy như có sâu bò.
- Viêm xoang mũi.
- Mũi tắc, mũi ngứa, mũi chảy nước, khịt mạnh như có mùi ốc thối.
Chú ý: Gốc mướp lấy từ mặt đất lên độ 1 m, thái miếng, phơi khô;
Vị ngọt, tính bình không độc; Có tác dụng chữa bệnh ở mũi.
Vương văn Liêu
Thứ Năm, 6 tháng 12, 2012
Xôn xao Đông dược
PGS.TS. Dương Trọng Hiếu
Vừa qua,
báo chí đăng một số bài về Đông dược, nào là thuốc rút hết chất, nào là thuốc
xông diêm sinh, thuốc chỉ còn là rác - gây hoang mang cho không ít người. Vậy
nên hiểu đúng Đông dược thế nào?
Đông dược được hiểu là
thuốc để các thầy thuốc Đông y dùng để phòng và chữa bệnh. Từ khi sinh ra con
người, để bảo tồn nòi giống con người đã phát hiện ra cây gì, quả gì, con gì,
làm tăng sức khỏe, thứ gì làm hại sức khỏe qua quá trình sống và đúc kết,
truyền từ đời trước qua đời sau, lúc chưa có chữ viết thì truyền miệng. Khi có
chữ viết thì truyền bằng sách ghi chép mô. Mỗi đời sau lại bổ sung cho chi tiết
hoàn chỉnh hơn cả về lý luận và thực tiễn. Như vậy có thể hiểu Đông dược có từ
3 nguồn: từ thảo mộc: cây cỏ hoa lá; từ động vật: xương thịt, phủ tạng động vật
và khoáng chất, như mang tiêu, chu xa, thạch tín... Từ thực tiễn cuộc sống hàng
ngàn đời đã sử dụng và truyền lại cho đến bây giờ. Còn Tân dược được nghiên cứu
từ thực nghiệm để hình thành thuốc men.
Như vậy, từ thuở sơ khai
có người có công tìm tòi ứng dụng mà thành thầy lang. Khi có sách vở thì người
chăm đọc sách, sưu tầm, có ứng dụng thành thầy lang. Khi có trường học những
người này sẽ trở thành thầy dạy. Nói đến trường học chắc mới có độ trăm năm trở
lại đây. Ở nước ta mới tổng kết ngành Đông y là 50 năm (1957-2007). 50 năm
61/64 tỉnh thành có Hội Đông y, 61 tỉnh có 50.700 hội viên. Hội đã đào tạo bồi
dưỡng cho 88.616 hội viên, xây dựng 2.821 trung tâm khám chữa bệnh, 8.306 phòng
khám Đông y khám chữa cho 22 triệu lượt người/năm. Điều đó nói rằng 50 năm qua
Đông y đã đóng góp vào việc chăm sóc sức khỏe của dân là khá lớn. Đông dược đã
góp phần cứu sống hàng triệu người. Nâng cao sức khỏe cho hàng triệu người. Tuy
nhiên, cũng có những nơi đã xôn xao như chùa Pháp hoa chữa ung thư, như Hòa
Bình chữa bệnh nan trị, đây đó chữa tiêu chảy, lở, ngứa và tai biến cũng đã xảy
ra ở một số người phải đi cấp cứu. Xét cho cùng dùng Đông dược hay Tân dược đều
có thể xảy ra những tác dụng phụ không mong muốn.
Nhưng lại có thông tin
thể hiện hạn chế của người đưa tin như Đông dược xông diêm sinh (lưu huỳnh -
S). Thực ra, người xưa đã biết dùng diêm sinh làm thuốc trợ dương, làm thuốc
chữa bệnh ngoài da từ hàng ngàn năm rồi. Một số dược liệu bắt buộc phải dùng
diêm sinh để chống mốc mọt.
Diêm sinh (lưu huỳnh -
S) là một á kim có khả năng thăng hoa và bán hủy nhanh. Như vậy, xông diêm sinh
cho một số vị thuốc theo quy định là đúng, không gây độc cho người bệnh. Việc
này khác rất xa với việc phun thuốc sâu trên hoa quả hay ngâm focmon vào bánh
phở, nước nắm có urê, nước tương có chất 3MPCD gây ung thư...
Có một điều nhiều người
không để ý là Tây y có hệ thống đào tạo. Muốn làm y tá phải học mấy năm, làm y
sĩ học mấy năm và làm bác sĩ bắt buộc học 6 năm. Còn ông bà lang tự học, học
trong trường đời, học trong gia đình, rồi tự làm thành quen, sau 5-7 năm cảm
thấy mình có kinh nghiệm, có người tự nhận mình là thần y. Còn người buôn dược
liệu, cũng tự học, tự làm, lâu dần thành quen. Sau nhiều năm cho mình là có
kinh nghiệm, kinh nghiệm đó đúng hay sai thế nào có ai kiểm chứng đâu. Người
mua và hành nghề Đông y biết về Đông dược không nhiều, chỉ biết tên mà không
biết mặt vị thuốc nên người bán bảo đó là khương hoạt thì mua là khương hoạt,
người bán bảo đây là uất kim thì mua về dùng là uất kim... Vị thuốc đó đúng hay
sai ai chịu trách nhiệm? Viên Tanakan để tăng tuần hoàn não thì là lá bạch quả
hay hạt bạch quả?
Trong triết học Phương
Đông có học thuyết âm dương - học thuyết chỉ ra cái gì cũng có 2 mặt: đỏ và
đen, sáng và tối, nóng và lạnh... Đông dược trước hết là cây cỏ. Có loại ở nước
ta tự khai thác hay dân ta phải trồng, có loại ta phải nhập. Có hàng vạn người
bán và hàng triệu người mua như vậy không phải người bán là xấu cả. Ông cha ta
ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về sử dụng thuốc nam và thuốc bắc, để
mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cần chú trọng nghiên cứu phối hợp thuốc
Đông và thuốc Tây - Chủ tịch Hồ Chí Minh 27/2/1957, và câu đại ý: “Các thầy
thuốc Tây y cũng phải học Đông y, các ông lang cũng phải học Tây y. Nên làm gì
cũng vậy nếu có học, có hiểu biết chắc chắn sẽ đỡ khổ cho người dân bị bệnh.
Bài viết năm 2008
Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012
Kỳ 44. Chữa bệnh bằng máy sấy tóc
BS Huỳnh Hải
---------------------------------------------------
---------------------------------------------------
Kỳ 44
Tập hít thở
Hít thở nhằm cung cấp dưỡng khí cho cơ thể, thải khí độc ra ngoài và để tâm trí yên ổn.
Hít thở phải đũ các yếu tố sau:
- Ngồi tư thế thoải mái, cột sống thẳng
- Không khí nên trong sạch ( nơi có cây xanh, có ánh nắng ban mai, không bụi khói, yên tĩnh
)
-
Tốc độ
hít thở vừa phải ( không nhanh, không chậm ) và sao cho có cảm giác dễ chịu
-
Hít
vào và thở ra đếm 1. Sau đó lập lại đếm đến 10 ( một đợt ). Sau đó các bạn hít
thở bình thường ( không để ý hơi thở ). Rồi tiếp tục đợt mới. Một buổi tập
khoảng 4 đợt như vậy
-
Khi
hít thở chỉ chú ý đến hơi thở ra vào ( không để ý nghĩ xen vào ) và cơ thể phải
buông lỏng hoàn toàn. Đang hít thở nếu quên số đếm phải lập lại đợt đó và đếm
lại từ 1
-
Hít
vào bằng mũi ( ngậm miệng lại ). Khi thở ra cũng bằng mũi nhưng gần cuối hơi
thở ra há nhẹ miệng để thở vừa mũi vừa miệng
BÀI TẬP XOA BÓP TOÀN THÂN: da đầu, mặt, cổ, gáy, bụng, hông, thận, tay,
chân…
Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012
Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?
Có một cô gái trẻ chuyển nhà mới.
Cô phát hiện hàng xóm nhà mình là một phụ nữ nghèo goá chồng, sống với hai đứa con nhỏ.
Một ngày nọ, khu phố bị mất điện đột ngột. Cô gái trẻ phải dùng nến để thắp sáng.
Một lát sau, có tiếng gõ cửa. Hoá ra là đứa bé con nhà hàng xóm.
Nó hồi hộp hỏi: "Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?"
Cô gái trẻ nghĩ: " Nhà nó nghèo đến mức nến cũng không có mà dùng ư? Cho nhà nó một lần, lần sau lại sang xin nữa cho mà xem!"
Thế là cô gái xẵng giọng: "Không có!"
Đúng lúc cô định đóng cửa lại, đứa trẻ nhà hàng xóm nghèo mỉm cười nói: "Cháu biết ngay là nhà cô không có mà!"
Nói xong, nó chìa ra hai cây nến: "Mẹ cháu với cháu sợ cô chỉ sống có một mình, không có nến nên bảo cháu mang nến sang cho cô dùng tạm."
Trong cuộc sống của chúng ta cũng sẽ có những lúc như thế. Dù con người sống trong hoàn cảnh khó khăn hay giàu có, họ đều cần sự an ủi từ ai đó.
Đừng ích kỷ, hãy lắng nghe âm thanh cuộc sống. Cuộc sống của ta sẽ không xấu, mà thậm chí nó còn đẹp hơn khi chúng ta cho đi.
Bởi... CHO đi chính là NHẬN lại!
Lê Quang Thọ
Cô phát hiện hàng xóm nhà mình là một phụ nữ nghèo goá chồng, sống với hai đứa con nhỏ.
Một ngày nọ, khu phố bị mất điện đột ngột. Cô gái trẻ phải dùng nến để thắp sáng.
Một lát sau, có tiếng gõ cửa. Hoá ra là đứa bé con nhà hàng xóm.
Nó hồi hộp hỏi: "Cô ơi cô, nhà cô có nến không ạ?"
Cô gái trẻ nghĩ: " Nhà nó nghèo đến mức nến cũng không có mà dùng ư? Cho nhà nó một lần, lần sau lại sang xin nữa cho mà xem!"
Thế là cô gái xẵng giọng: "Không có!"
Đúng lúc cô định đóng cửa lại, đứa trẻ nhà hàng xóm nghèo mỉm cười nói: "Cháu biết ngay là nhà cô không có mà!"
Nói xong, nó chìa ra hai cây nến: "Mẹ cháu với cháu sợ cô chỉ sống có một mình, không có nến nên bảo cháu mang nến sang cho cô dùng tạm."
Trong cuộc sống của chúng ta cũng sẽ có những lúc như thế. Dù con người sống trong hoàn cảnh khó khăn hay giàu có, họ đều cần sự an ủi từ ai đó.
Đừng ích kỷ, hãy lắng nghe âm thanh cuộc sống. Cuộc sống của ta sẽ không xấu, mà thậm chí nó còn đẹp hơn khi chúng ta cho đi.
Bởi... CHO đi chính là NHẬN lại!
Lê Quang Thọ
Nguồn: Khí Công Y Đạo VN
Thứ Ba, 27 tháng 11, 2012
Không rượu mà say
Thích nữ Trí Hải
(Thuật theo chuyện kể của Hòa thượng Trí Nghiêm)
Vào một buồi chiều tịnh mịch ở Kỳ viên tinh xá, sau khi giảng pháp cho chư tăng và cư sĩ khắp nơi tụ về, Ðức Thế tôn vào hương thất an nghỉ. Vừa đặt lưng xuống, Ngài bỗng nghe tiếng đập cửa thình thình và tiếng khè khè của một gã say rượu thừa lúc cổng mở, đã lẻn vào tinh xá. Hắn vừa đập cửa vừa gọi:
- Ông Phật ơi, ông Phật! Cho tui làm Phật với! Tui cũng muốn ... làm Phật! Khà khà! Bộ chỉ mình ông làm Phật được mà thôi à? Há ?
Ðức Thế tôn ngồi dậy đi ra. Thấy gã say dơ dáy, y phục tả tơi, Ngài động lòng trắc ẩn gọi thị giả A Nan:
- Này, A Nan, ông tắm rửa, cạo tóc và cho ông ta một cái y sạch. Rồi tìm chỗ cho nằm nghỉ.
A Nan vâng lệnh. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, cạo tóc đắp y, gã say được đưa đến một gốc cây im mát trong tịnh xá. Gã đánh một giấc ngon lành cho đến sáng hôm sau. Khi tỉnh dậy, hắn bỡ ngỡ nhìn quanh thấy toàn thầy tu mặc áo vàng đi bách bộ, nhìn lại mình cũng đang đắp y, sờ đầu thấy trụi lũi, hắn kinh hoàng không biết mình là ai, vội vàng bỏ chạy một mạch ra phía cổng. Các tỳ kheo đuổi theo bắt lại. Nhưng một số khác biết chuyện, ngăn:
- Này, chư hiền, để cho hắn chạy. Hắn chỉ là một gã say, hôm qua Thế tôn bảo tôn giả A Nan tắm rửa cạo tóc đắp y vào cho hắn đấy.
- Thật thế sao? Tại sao đức Thế tôn làm chuyện lạ nhỉ? Biết hắn say mà vẫn độ cho hắn xuất gia?
- Hãy để hắn đi cho khuất, rồi chúng ta sẽ đến thỉnh giáo đức Thế tôn về việc này.
Thế là họ kéo nhau đến hương thất đức Phật, bạch hỏi:
- Bạch đức Thế tôn, chúng con không hiểu vì nguyên nhân gì Ngài lại độ cho một gã say như thế? Xin Ðấng Thiện Thế giải rõ cho chúng con.
- Này các tỳ kheo, các ông dường như trách ta vì đã độ cho một gã say. Nhưng ta hỏi các ông, trong lúc hắn say, tại sao không cầu chuyện gì khác, mà lại cầu làm Phật? Như thế là hắn đã gieo một cái nhân tốt đẹp, ta phải giúp duyên cho hắn, vì ta không hẹp gì mà không giúp cho hắn thành Phật. Vả lại, có bao nhiêu người "tỉnh" biết cầu làm Phật như hắn? Vậy thì ai tỉnh, ai say? Huống chi, hắn có nhậu rượu vào mà say, thì bất quá chỉ say vài tiếng đồng hồ rồi tỉnh lại. Cho nên, bệnh say của hắn, ta không cho là trầm trọng. Trái lại, biết bao kẻ trên thế gian này, dù không uống rượu mà vẫn say, không phải say vài tiếng đồng hồ như hắn, mà say muôn kiếp ngàn đời chưa tỉnh. Cái bệnh say đó, say trong vô minh ái dục, Ta mới gọi là một chứng bệnh trầm kha!
(Thuật theo chuyện kể của Hòa thượng Trí Nghiêm)
Vào một buồi chiều tịnh mịch ở Kỳ viên tinh xá, sau khi giảng pháp cho chư tăng và cư sĩ khắp nơi tụ về, Ðức Thế tôn vào hương thất an nghỉ. Vừa đặt lưng xuống, Ngài bỗng nghe tiếng đập cửa thình thình và tiếng khè khè của một gã say rượu thừa lúc cổng mở, đã lẻn vào tinh xá. Hắn vừa đập cửa vừa gọi:
- Ông Phật ơi, ông Phật! Cho tui làm Phật với! Tui cũng muốn ... làm Phật! Khà khà! Bộ chỉ mình ông làm Phật được mà thôi à? Há ?
Ðức Thế tôn ngồi dậy đi ra. Thấy gã say dơ dáy, y phục tả tơi, Ngài động lòng trắc ẩn gọi thị giả A Nan:
- Này, A Nan, ông tắm rửa, cạo tóc và cho ông ta một cái y sạch. Rồi tìm chỗ cho nằm nghỉ.
A Nan vâng lệnh. Sau khi tắm rửa sạch sẽ, cạo tóc đắp y, gã say được đưa đến một gốc cây im mát trong tịnh xá. Gã đánh một giấc ngon lành cho đến sáng hôm sau. Khi tỉnh dậy, hắn bỡ ngỡ nhìn quanh thấy toàn thầy tu mặc áo vàng đi bách bộ, nhìn lại mình cũng đang đắp y, sờ đầu thấy trụi lũi, hắn kinh hoàng không biết mình là ai, vội vàng bỏ chạy một mạch ra phía cổng. Các tỳ kheo đuổi theo bắt lại. Nhưng một số khác biết chuyện, ngăn:
- Này, chư hiền, để cho hắn chạy. Hắn chỉ là một gã say, hôm qua Thế tôn bảo tôn giả A Nan tắm rửa cạo tóc đắp y vào cho hắn đấy.
- Thật thế sao? Tại sao đức Thế tôn làm chuyện lạ nhỉ? Biết hắn say mà vẫn độ cho hắn xuất gia?
- Hãy để hắn đi cho khuất, rồi chúng ta sẽ đến thỉnh giáo đức Thế tôn về việc này.
Thế là họ kéo nhau đến hương thất đức Phật, bạch hỏi:
- Bạch đức Thế tôn, chúng con không hiểu vì nguyên nhân gì Ngài lại độ cho một gã say như thế? Xin Ðấng Thiện Thế giải rõ cho chúng con.
- Này các tỳ kheo, các ông dường như trách ta vì đã độ cho một gã say. Nhưng ta hỏi các ông, trong lúc hắn say, tại sao không cầu chuyện gì khác, mà lại cầu làm Phật? Như thế là hắn đã gieo một cái nhân tốt đẹp, ta phải giúp duyên cho hắn, vì ta không hẹp gì mà không giúp cho hắn thành Phật. Vả lại, có bao nhiêu người "tỉnh" biết cầu làm Phật như hắn? Vậy thì ai tỉnh, ai say? Huống chi, hắn có nhậu rượu vào mà say, thì bất quá chỉ say vài tiếng đồng hồ rồi tỉnh lại. Cho nên, bệnh say của hắn, ta không cho là trầm trọng. Trái lại, biết bao kẻ trên thế gian này, dù không uống rượu mà vẫn say, không phải say vài tiếng đồng hồ như hắn, mà say muôn kiếp ngàn đời chưa tỉnh. Cái bệnh say đó, say trong vô minh ái dục, Ta mới gọi là một chứng bệnh trầm kha!
Nguồn: Khí Công Y Đạo Việt Nam
Khỏi hoại tử chân nhờ cóc
Đó là thông tin mà anh Nguyễn Ngọc Ninh (sinh năm 1964) và nhiều hàng xóm của anh ở thôn Cồn Nâm, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (Quảng Bình) khẳng định, kể từ khi anh Ninh dùng cóc chữa lành bàn chân bị hoại tử của mình.
Đầu năm 2008, anh Ninh mua một đôi dép nhựa màu đen để đi. Đôi dép hơi chật so với bàn chân, nên hai mu bàn chân cứ tấy đỏ lên mỗi khi đi lại nhiều. Lúc đó anh không để ý lắm, đến lúc mu bàn chân phải bị mưng mủ anh mới bỏ không đi dép nữa.
Do chủ quan và kinh tế gia đình khó khăn, anh không có điều kiện đến bệnh viện mà chỉ dùng lá cây và mua thuốc kháng sinh về bôi lên vết thương. Chữa mãi không lành, anh tìm đến một bác sỹ tư trong vùng để chữa chạy. Ông bác sỹ này khẳng định, trong vòng một tháng, chân anh sẽ lành. Sau hơn một tháng điều trị, vết thương còn trầm trọng hơn, ăn sâu vào trong.
Thấy tình hình không ổn, anh trốn ông bác sỹ này vào Bệnh viện T.Ư Huế để điều trị. Sau hơn nửa tháng nằm viện, các bác sỹ ở đây khuyên anh nên cưa chân vì bàn chân của anh đã bị hoại tử, không thể hồi phục.
Hoảng quá, anh lại bỏ Bệnh viện T.Ư Huế ra Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội) để điều trị. Lúc này vết thương của anh đã ăn lên gần đến đầu gối. Đêm nằm, mủ từ trong chảy ra qua các vết thương hở gần cả bát, bàn chân và ống chân sưng vù, đỏ tấy.
Các bác sỹ đã nạo sạch vết thương và cho anh dùng kháng sinh liều cao. Nhưng được mấy ngày, vết thương lại mưng mủ và ngày một trầm trọng hơn. Bác sỹ khuyên anh nên tháo khớp xương đầu gối để tránh hậu họa nhưng anh không chịu. Sau 23 ngày điều trị, hết tiền, anh trốn về Nghệ An tìm thầy lang thổi.
Thầy lang thổi mãi vẫn không lành, anh đành về quê để vay mượn tiền và bàn với vợ việc tháo khớp xương. Lúc này ai bày gì là anh làm nấy.
Trong lúc đang chuẩn bị ra lại Bệnh viện Việt Đức để tháo khớp đầu gối, tình cờ anh gặp một người tên Cảnh, ở thôn Bàu Sen, xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch. Người này nói rằng, ngày xưa đi bộ đội, có người bị hoại tử như anh Ninh. Một người dân tộc đã bày cho anh ta dùng mỡ lợn bôi lên vết thương, rồi đốt nguyên con cóc thành than, tán nhỏ, phủ lên lớp mỡ lợn đó và lành.
Nghe lời, anh Ninh cũng làm cách đó để chữa trị. Chỉ sau một thời gian ngắn, vết thương của anh có chiều hướng thuyên giảm. Chỉ 10 con cóc, 1 kg mỡ lợn và sau hơn 1 tháng điều trị, chân anh lành hẳn.
Anh Ninh nhớ lại: "Nói thật với chú, lúc đó đường cùng, nên ai bày chi làm nấy. Đầu tiên, tui bắt 2 con cóc to, cho vào bếp than nướng cho đến cháy đen, rồi đưa ra tán nhỏ, phủ lên lớp mỡ lợn đã bôi từ trước. Chỉ sau 2 lần bôi, thấy vết thương có vẻ thuyên giảm. Khoảng một tháng rưỡi là vết thương bắt đầu lên da non và lành hẳn cho đến nay".
Anh Ninh cho biết thêm, anh có bày cách chữa này cho một số người ở xã Quảng Văn (Quảng Trạch) cũng bị mắc chứng hoại tử chữa mãi không lành như anh và cũng lành bệnh.
Hoàng Nam
Nguồn: Tien Phong online
Đó là thông tin mà anh Nguyễn Ngọc Ninh (sinh năm 1964) và nhiều hàng xóm của anh ở thôn Cồn Nâm, xã Quảng Minh, huyện Quảng Trạch (Quảng Bình) khẳng định, kể từ khi anh Ninh dùng cóc chữa lành bàn chân bị hoại tử của mình.
Đầu năm 2008, anh Ninh mua một đôi dép nhựa màu đen để đi. Đôi dép hơi chật so với bàn chân, nên hai mu bàn chân cứ tấy đỏ lên mỗi khi đi lại nhiều. Lúc đó anh không để ý lắm, đến lúc mu bàn chân phải bị mưng mủ anh mới bỏ không đi dép nữa.
Do chủ quan và kinh tế gia đình khó khăn, anh không có điều kiện đến bệnh viện mà chỉ dùng lá cây và mua thuốc kháng sinh về bôi lên vết thương. Chữa mãi không lành, anh tìm đến một bác sỹ tư trong vùng để chữa chạy. Ông bác sỹ này khẳng định, trong vòng một tháng, chân anh sẽ lành. Sau hơn một tháng điều trị, vết thương còn trầm trọng hơn, ăn sâu vào trong.
Thấy tình hình không ổn, anh trốn ông bác sỹ này vào Bệnh viện T.Ư Huế để điều trị. Sau hơn nửa tháng nằm viện, các bác sỹ ở đây khuyên anh nên cưa chân vì bàn chân của anh đã bị hoại tử, không thể hồi phục.
Hoảng quá, anh lại bỏ Bệnh viện T.Ư Huế ra Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội) để điều trị. Lúc này vết thương của anh đã ăn lên gần đến đầu gối. Đêm nằm, mủ từ trong chảy ra qua các vết thương hở gần cả bát, bàn chân và ống chân sưng vù, đỏ tấy.
Các bác sỹ đã nạo sạch vết thương và cho anh dùng kháng sinh liều cao. Nhưng được mấy ngày, vết thương lại mưng mủ và ngày một trầm trọng hơn. Bác sỹ khuyên anh nên tháo khớp xương đầu gối để tránh hậu họa nhưng anh không chịu. Sau 23 ngày điều trị, hết tiền, anh trốn về Nghệ An tìm thầy lang thổi.
Thầy lang thổi mãi vẫn không lành, anh đành về quê để vay mượn tiền và bàn với vợ việc tháo khớp xương. Lúc này ai bày gì là anh làm nấy.
Trong lúc đang chuẩn bị ra lại Bệnh viện Việt Đức để tháo khớp đầu gối, tình cờ anh gặp một người tên Cảnh, ở thôn Bàu Sen, xã Phúc Trạch, huyện Bố Trạch. Người này nói rằng, ngày xưa đi bộ đội, có người bị hoại tử như anh Ninh. Một người dân tộc đã bày cho anh ta dùng mỡ lợn bôi lên vết thương, rồi đốt nguyên con cóc thành than, tán nhỏ, phủ lên lớp mỡ lợn đó và lành.
Nghe lời, anh Ninh cũng làm cách đó để chữa trị. Chỉ sau một thời gian ngắn, vết thương của anh có chiều hướng thuyên giảm. Chỉ 10 con cóc, 1 kg mỡ lợn và sau hơn 1 tháng điều trị, chân anh lành hẳn.
Anh Ninh nhớ lại: "Nói thật với chú, lúc đó đường cùng, nên ai bày chi làm nấy. Đầu tiên, tui bắt 2 con cóc to, cho vào bếp than nướng cho đến cháy đen, rồi đưa ra tán nhỏ, phủ lên lớp mỡ lợn đã bôi từ trước. Chỉ sau 2 lần bôi, thấy vết thương có vẻ thuyên giảm. Khoảng một tháng rưỡi là vết thương bắt đầu lên da non và lành hẳn cho đến nay".
Anh Ninh cho biết thêm, anh có bày cách chữa này cho một số người ở xã Quảng Văn (Quảng Trạch) cũng bị mắc chứng hoại tử chữa mãi không lành như anh và cũng lành bệnh.
Hoàng Nam
Nguồn: Tien Phong online
Món ăn - bài thuốc phòng trị viêm gan mạn
tính
|
||
Trong điều trị viêm gan mạn (VGM), vấn đề ăn
uống có ý nghĩa hết sức quan trọng, có khi còn quyết định hơn cả dùng thuốc;
và kết luận này càng đúng đối với các “món ăn - bài thuốc” trong Đông y.
Xin
giới thiệu một số món ăn - bài thuốc có khả năng chữa trị hoặc hỗ trợ quá
trình điều trị VGM, đã được kiểm chứng trên thực tế và có thể áp dụng trong
điều kiện gia đình. Người bệnh có thể căn cứ vào các chứng trạng biểu hiện cụ
thể mà lựa chọn một vài món trong số sẽ giới thiệu dưới đây:
Nhân trần mạch nha hồng táo thang Nguyên liệu: Nhân trần 15g, mạch nha (hoặc cốc nha - tức mầm thóc) 20g; hồng táo (táo tàu) 10 quả; đường trắng vừa đủ ngọt. Cách chế: Táo tàu đem ngâm nước ấm một lúc rồi rửa sạch. Cho nhân trần, mạch nha và táo vào nồi, đổ nước vào cho ngập thuốc, đun sôi, giữ nhỏ lửa khoảng 30 phút, sau đó cho thêm chút đường vào. Tác dụng: Xúc tiến chức năng gan, thông mật, thanh nhiệt, trừ thấp, tiêu thực, trừ trướng. Dùng cho trường hợp VGM với các triệu chứng: hai bên sườn trướng đau, bụng trướng, ngực khó chịu hoặc lợm giọng, nôn oẹ nước chua, kém ăn, đau bụng, tiêu chảy, khắp mình đau buốt, rêu lưỡi mỏng, mạch huyền. Một số nơi còn dùng để trị chứng viêm gan vàng da có hiệu quả tốt. Cách dùng: Chia làm 2 phần dùng 2 lần trong ngày; uống nước, ăn táo, bỏ bã.
Gan lợn xào củ cải
Nguyên liệu: Gan lợn 250g, củ cải 250g, dầu thực vật, bột mỳ, muối, mì chính, gia vị vừa đủ. Cách chế: Gan lợn đem rửa sạch, thái lát mỏng, trộn đều với muối, tẩm chút bột mỳ. Củ cải cũng thái lát mỏng, Cho một thìa dầu thực vật vào chảo đun nóng già, cho củ cải vào xào khi gần chín thì xúc củ cải ra. Cho 2 thìa dầu vào đun nóng già, cho gan lợn vào xào độ 3 phút rồi đổ củ cải vào xào tiếp khoảng 3 phút, thêm mắm muối, gia vị rồi múc ra là được. Tác dụng: Bổ gan, sáng mắt, thanh nhiệt, tiêu thực; đối với bệnh VGM và viêm túi mật có tác dụng điều trị nhất định; còn có tác dụng phòng biến chứng từ viêm gan sang ung thư gan. Cách dùng: Dùng làm thức ăn trong bữa cơm hằng ngày.
Ba ba hấp gừng
Nguyên liệu: Ba ba một con cỡ 200-300g; gừng tươi 5g; muối, rượu nếp mỗi thứ một chút. Cách chế: Dùng nước nóng rửa sạch bên ngoài, mổ bụng, bỏ ruột, giữ lại gan và trứng, rửa sạch, lau khô. Đặt ngửa con ba ba lên một cái đĩa, cho gừng đã thái lát, muối và một chút rượu nếp vào bụng. Đem hấp cách thủy 30-45 phút là được. Tác dụng: Dưỡng âm thanh nhiệt. Dùng cho những trường hợp viêm gan kèm theo sốt nhẹ, đêm ngủ ra mồ hôi trộm. Đây là món ăn có nhiều chất bổ, rất tốt đối với những bệnh nhân VGM, cơ thể suy nhược. Cách dùng: Có thể dùng làm món điểm tâm hoặc làm thức ăn trong bữa cơm, chú ý là cần ăn lúc nóng.
Cá trắm luộc
Nguyên liệu: Cá trắm đen một con (cỡ 500-800g); đường trắng 50g, giấm một thìa, hành, gừng, muối, tương, dầu vừng, rượu nếp, bột mỳ, hồ tiêu mỗi thứ một ít. Cách chế: Cá trắm đem bóc mang, cạo vẩy, mổ bụng bỏ hết nội tạng rồi rửa sạch. Sau đó bổ dọc làm đôi, đầu cá cũng bổ đôi, lau khô. Đổ 3 bát nước vào nồi, đun lửa to cho đến khi sôi, cho cá vào, đậy vung, đun sôi tiếp trong 5 phút, cho rượu và chút muối vào, đun nhỏ lửa thêm khoảng 10 phút, khi thấy mắt cá lồi ra ngoài là cá đã chín, vớt cá ra để cho róc nước rồi bày lên đĩa. Nước trong nồi còn khoảng nửa bát, trước hết cho chút đường, giấm, tương, gừng, rượu nếp vào đun lại cho sôi, tiếp đó cho hành và bột mỳ vào trộn đều sẽ thành nước cốt đặc quánh, đem rưới lên cá trên đĩa, cuối cùng thêm vài giọt dầu vừng vào là được. Ngoài cách chế biến vừa giới thiệu, tùy theo sở thích có thể chế thành những món ăn khác. Tác dụng: Đây là một món ăn chữa bệnh rất nổi tiếng ở vùng Triết Giang (Trung Quốc). Cá trắm có nhiều chất dinh dưỡng cần thiết đối với người mắc bệnh VGM; theo Đông y, cá trắm có tính bình, vị ngọt, có tác dụng điều hòa và tăng cường chức năng tiêu hóa (hòa trung, bổ khí, dưỡng vị), dưỡng can, trừ phong, hóa thấp... Là món ăn bổ dưỡng rất tốt đối với người bị VGM. Cách dùng: Dùng làm món ăn trong bữa cơm.
Cá diếc hầm
Nguyên liệu: Cá diếc tươi 250g; hành 250g; dầu thực vật, tương, muối, đường, gừng mỗi thứ một chút. Cách chế: Cá diếc đem bóc mang, cạo vẩy, mổ bụng giữ lại bong bóng, trứng, bỏ hết các bộ phận nội tạng khác, rửa sạch, để cho róc nước. Cho 5 thìa dầu vào chảo đun nhỏ lửa tới khi nóng già, cho 3 lát gừng vào rồi lập tức cho cá vào. Khi thấy da cá chuyển sang màu vàng thì cho tương, muối, đường vào, đổ thêm nửa bát nước lạnh và om trong 10 phút cho ngấm. Thêm một bát to nước lạnh, đun sôi, đem hành đã bỏ rễ và lá úa nhúng vào nước canh sau đó phủ lên thân cá; đậy kín vung, đun nhỏ lửa khoảng nửa tiếng là được. Tác dụng: Đây là món ăn đặc sản vùng Giang Nam (Trung Quốc), lại cũng là món ăn chữa bệnh gan. Cá diếc phối hợp với hành có tác dụng bổ gan, chống trướng bụng, xúc tiến tiêu hóa, đối với bệnh VGM có tác dụng hỗ trợ tốt cho quá trình điều trị. Cách dùng: Dùng làm thức ăn trong bữa cơm.
Ngó sen nhồi đỗ xanh táo nhân
Nguyên liệu: Đỗ xanh 200g; táo nhân 50g; ngõ sen to 4 cái. Cách chế: Đỗ xanh và táo nhân đem ngâm nước nửa giờ rồi vớt ra. Ngó sen rửa sạch, cắt ra một mẩu ngắn để riêng (sẽ dùng làm “nắp”). Nhồi đỗ xanh và táo nhân vào trong các lỗ rỗng của ngó sen, lấy mẩu đã cắt ra đậy kín dùng tăm tre ghim lại cho chắc, sau đó đặt ngang vào nồi. Đổ nước lạnh vào đun trong 2-3 giờ, nếu nước cạn thì đổ thêm, đun tới khi ngó sen chín nhừ là được. Tác dụng: Tăng cường chức năng tiêu hóa (kiện tỳ), bổ gan, an thần, thanh nhiệt giải độc, có giá trị dinh dưỡng cao. Sử dụng trong trường hợp VGM kèm theo kém ngủ hay ngủ mê. Cách dùng: Hằng ngày dùng món này điểm tâm buổi sáng, thêm chút đường vào cho ngon miệng, nước sắc có thể dùng như nước canh.
Trà bổ gan
Nguyên liệu: Táo tàu, lạc củ, đường mỗi vị 50g. Cách chế: Táo và lạc đem rửa sạch, lạc để nguyên cả vỏ lụa, sắc với nước như đun trà, trước khi bắc ra thêm đường cho đủ ngọt. Tác dụng: Bổ gan, tăng cường chức năng tiêu hóa. Cách dùng: Uống thay nước trà hằng ngày; có thể ăn cả táo và lạc; liên tục 30 ngày. Lương y Huyên Thảo |
||
Báo Sức khoẻ và đời sống
|
Chủ Nhật, 25 tháng 11, 2012
Tinh trùng - Kháng sinh tự
nhiên
Một số cặp vợ
chồng chọn cách "đi chợ để dành tiền" để thực hiện sinh đẻ có kế
hoạch. Khi sinh hoạt vợ chồng, phía nam cũng thường "giải lao" giữa
chừng trước khi đến giai đoạn xuất tinh. Đứng trên quan điểm của y học hiện
đại, như vậy sẽ có hại.
Các nhà nghiên cứu khoa học đã phát hiện ra rằng, trong tinh dịch của người, có chứa một chất kháng khuẩn quan trọng là Cytomycin, nó có khả năng tiêu diệt cầu khuẩn hình chuỗi nho, cầu khuẩn móc xích và các loại vi khuẩn khác, với tác dụng giống như kháng sinh Penicillin, Streptomycin, Totracyclin...
Vì vậy, tinh
dịch được xem như là một chất kháng sinh tự nhiên. Cuộc sống vợ chồng nồng
thắm, sinh hoạt tình dục hài hòa, tinh dịch của người chồng đi vào âm đạo người
vợ sẽ có tác dụng sát trùng khử độc, mang tính chất "nghĩa vụ" đối
với cổ tử cung và ống dẫn trứng.
Ngoài ra, sự
kích thích tích cực của hoạt động tình dục sẽ làm cho khả năng nội phân của cơ
thể người vợ giảm bớt hoặc loại bỏ được hội chứng tổng hợp kinh nguyệt (thời kỳ
hành kinh bị nhức đầu, khó chịu, đau bụng, phù thũng...). Những đôi vợ chồng
cấm dục sẽ làm mất đi "hiệu ứng tốt lành".
Trong quá trình
sinh hoạt tình dục, khi chưa đến giai đoạn xuất tinh mà phía nam "bỏ
dở" giữa chừng thì đó là hoạt động tình dục không trọn vẹn. Nếu cứ thường
xuyên như vậy sẽ có hại cho cơ thể. Hình thức sinh hoạt tình dục như vậy cũng
làm cho phái nữ không được hưng phấn cao độ, dễ gây đau đầu, đau bụng, thậm chí
còn gây ra viêm hố chậu mãn tính.
Các chuyên gia
y học cho rằng, tất cả những đôi vợ chồng có khả năng tình dục đều có thể tận
hưởng sự đam mê của tình ái, không nên hạn chế quá mức trong việc sinh hoạt vợ
chồng hoặc cấm dục hẳn, như thế sẽ không có lợi cho sức khỏe cả về thể xác lẫn
tinh thần của hai vợ chồng, như mọi người vẫn nói: "Ân ái vợ chồng kéo dài
tuổi thọ".
Theo Eva
Thứ Sáu, 23 tháng 11, 2012
Làm sao biết có kiếp trước, kiếp sau
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau. Chỉ có những người tu tập thiền định, đi sâu vào nội tâm, chứng được các tầng thiền, hoặc có thiên nhãn thông, túc mạng thông thì mới thấy được kiếp sống quá khứ và vị lai.
Đa số con người đều rơi vào hai loại chấp:
1) chấp thường: tin rằng sau khi chết thì linh hồn còn hoài, hoặc xuống địa ngục bị trừng phạt đời đời, hoặc lên thiên đàng hưởng phước đời đời. Trong trường hợp này họ vô tình chấp nhận là có kiếp sau.
2) chấp đoạn: tin rằng sau khi chết là hết, không còn gì hết.
Đối với hai hạng người chấp như trên thì rất khó nói cho họ hiểu, bởi vì trong tâm của họ đã đóng khung và tin chắc như vậy rồi, giống như một cái ly úp ngược thì dù cố gắng đổ bao nhiêu nước cũng không vào được.
Vì không có thiên nhãn hay thần nhãn nên chúng ta có thể tạm dùng lý trí mà suy luận ra. Hãy lấy thí dụ, làm sao biết được có vi trùng, vi khuẩn? Mắt thường làm sao thấy được? Nếu mắt không thấy thì làm sao lại tin là có? Đa số đều tin có vi trùng, kể cả những trẻ nhỏ mới biết đọc biết viết. Người thường như chúng ta không trông thấy vi trùng nhưng các bác sĩ, bác học với kính hiển vi họ thấy vi trùng một cách rõ ràng và đối với họ, có vi trùng là một sự thật hiển nhiên chứ không còn là một niềm tin nữa. Khi chúng ta bị bệnh đi nhà thương nghe bác sĩ nói ta bị nhiễm vi trùng này,vi trùng kia là chúng ta tin liền. Tại sao không thấy mà tin? Bởi vì do suy luận hợp lý mà tin. Ta tin bác sĩ là người có học thức đàng hoàng, khổ nhọc nghiên cứu học hỏi trên dưới 10 năm mới ra trường. Hơn nữa ông ta hơi đâu mà đi lừa ta làm gì? Ông ta nói vi trùng nào cũng được, miễn sao cho ta thuốc uống hết bệnh là được rồi.
Tại sao mắt ta không thấy vi trùng mà vẫn tin? Tại sao ta không biết trong thuốc có những hóa chất gì mà lại tin là uống vào sẽ hết bệnh? Nếu ta muốn thấy tận mắt vi trùng thì phải vào các phòng thí nghiệm dí mắt vào ống kính hiển vi. Nếu ta muốn biết những hóa chất của thuốc tây thì phải chịu khó vào đại học vài năm để học y khoa hay dược khoa thì mới biết được những hoá chất hay dược liệu đó là gì, có công năng gì, do những phản ứng hóa học nào tạo ra, v.v...
Cũng vậy, nếu muốn thấy được kiếp trước hay kiếp sau thì ta cũng phải chịu khó tu tập thiền định để chứng được thiên nhãn thông hoặc túc mạng thông. Đức Phật nhờ tu hành đắc đạo nên có thiên nhãn thông, túc mạng thông thấy được vô số kiếp quá khứ của mình và của người khác giống như người có máy video thâu được hình ảnh của mình và người. Điều cần nhấn mạnh là những đệ tử của ngài cũng chứng được và thấy được kiếp trước của mình. Đức Phật là bậc giác ngộ, đệ tử của ngài là những bậc thánh tăng A la Hán, không còn phiền não ô nhiễm, đều chứng được thiên nhãn thông và túc mạng thông. Là Phật tử, tuy nhục nhãn còn bị che lấp bởi vô minh phiền não nhưng chúng ta vẫn có thể tin lời các ngài là có kiếp trước kiếp sau, giống như chúng ta đang tin bác sĩ nói có vi trùng vậy.
Tại sao chúng ta không thấy được ngày hôm qua mà lại tin là có ngày hôm qua? Ta biết được có ngày hôm qua là nhờ ký ức. Qua một đêm ngủ thời gian không đủ dài để xóa mờ trí nhớ nên ta mới nhớ lại được. Nhưng làm sao ta nhớ lại được chính xác ta đã làm gì, nói gì, đi đâu với ai, chỗ nào 10, 20 năm về trước? Nếu không nhớ nổi việc cũ ngay trong kiếp này thì qua một lần chết và tái sinh, trải qua một thân ngũ uẩn khác (ví như một màn sương mù dày đặc) làm sao ta có thể nhớ lại được kiếp trước? Một người bị mổ tim hay mổ óc, bị chích thuốc mê, sau khi tỉnh dậy nhiều khi phải mất vài ngày mới hoàn hồn nhớ lại được mình là ai, đang ở đâu. Chưa kể những người bị bệnh Alzheimer hoàn toàn mất hết trí nhớ, đối với những người này thì ngày hôm qua còn không có huống chi năm trước hay kiếp trước. Với kỹ thuật văn minh hiện đại, chúng ta có thể chụp hình với máy ảnh hoặc thu hình với máy video. Những gì chúng ta đã chụp hoặc thu hình từ mười năm trước, hôm nay tuy không thấy, không nhớ, nhưng nếu cần thì chúng ta vẫn có thể lấy ra xem lại được vì tất cả hình ảnh đã được thâu vào băng video. Cũng vậy tất cả những gì chúng ta đã làm, đã sống đều được thu vào tâm thức. Tâm thức là một kho tàng chứa tất cả những kiếp sống của ta, trong Duy thức Học gọi là Tàng thức hay A lại Da (Alaya) thức. Người nào có khả năng đi vào vùng sâu thẳm của tâm (tức Tàng thức) thì có thể thấy lại hết những kiếp sống quá khứ của mình. Muốn đạt được khả năng này thì phải tu tập thiền định, hoặc ngày nay với phương pháp thôi miên (hypnotisme) người ta có thể trở lui về quá khứ hoặc kiếp này, hoặc nhiều lắm là một vài kiếp trước như trường hợp của ông Edgar Cayce. Chuyện tin có kiếp trước là một chuyện hiển nhiên đối với dân Tây Tạng, bởi vì các Lạt ma cao cấp, sau khi chết và tái sinh các ngài đều nhớ được kiếp trước của mình, đã từng là ai, ở đâu, sống trong tu viện nào, và nhận diện ra các đệ tử cũ của mình.
Chúng ta không thấy và không biết được có kiếp trước chỉ vì tâm thức của chúng ta chưa được học hỏi, tu tập và phát triển. Khoa học ngày nay cho biết là con người mới chỉ sử dụng được 10% bộ óc của mình mà thôi, còn lại 90% kia chưa được khai thác và biết đến. Vì vậy một người thông minh nên có tinh thần cởi mở để học hỏi và khám phá ra những điều mới lạ, thay vì cố chấp khép tâm lại, chỉ tin những gì mắt thấy, tai nghe, tay sờ mó được.
Thích Trí Siêu
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau. Chỉ có những người tu tập thiền định, đi sâu vào nội tâm, chứng được các tầng thiền, hoặc có thiên nhãn thông, túc mạng thông thì mới thấy được kiếp sống quá khứ và vị lai.
Đa số con người đều rơi vào hai loại chấp:
1) chấp thường: tin rằng sau khi chết thì linh hồn còn hoài, hoặc xuống địa ngục bị trừng phạt đời đời, hoặc lên thiên đàng hưởng phước đời đời. Trong trường hợp này họ vô tình chấp nhận là có kiếp sau.
2) chấp đoạn: tin rằng sau khi chết là hết, không còn gì hết.
Đối với hai hạng người chấp như trên thì rất khó nói cho họ hiểu, bởi vì trong tâm của họ đã đóng khung và tin chắc như vậy rồi, giống như một cái ly úp ngược thì dù cố gắng đổ bao nhiêu nước cũng không vào được.
Vì không có thiên nhãn hay thần nhãn nên chúng ta có thể tạm dùng lý trí mà suy luận ra. Hãy lấy thí dụ, làm sao biết được có vi trùng, vi khuẩn? Mắt thường làm sao thấy được? Nếu mắt không thấy thì làm sao lại tin là có? Đa số đều tin có vi trùng, kể cả những trẻ nhỏ mới biết đọc biết viết. Người thường như chúng ta không trông thấy vi trùng nhưng các bác sĩ, bác học với kính hiển vi họ thấy vi trùng một cách rõ ràng và đối với họ, có vi trùng là một sự thật hiển nhiên chứ không còn là một niềm tin nữa. Khi chúng ta bị bệnh đi nhà thương nghe bác sĩ nói ta bị nhiễm vi trùng này,vi trùng kia là chúng ta tin liền. Tại sao không thấy mà tin? Bởi vì do suy luận hợp lý mà tin. Ta tin bác sĩ là người có học thức đàng hoàng, khổ nhọc nghiên cứu học hỏi trên dưới 10 năm mới ra trường. Hơn nữa ông ta hơi đâu mà đi lừa ta làm gì? Ông ta nói vi trùng nào cũng được, miễn sao cho ta thuốc uống hết bệnh là được rồi.
Tại sao mắt ta không thấy vi trùng mà vẫn tin? Tại sao ta không biết trong thuốc có những hóa chất gì mà lại tin là uống vào sẽ hết bệnh? Nếu ta muốn thấy tận mắt vi trùng thì phải vào các phòng thí nghiệm dí mắt vào ống kính hiển vi. Nếu ta muốn biết những hóa chất của thuốc tây thì phải chịu khó vào đại học vài năm để học y khoa hay dược khoa thì mới biết được những hoá chất hay dược liệu đó là gì, có công năng gì, do những phản ứng hóa học nào tạo ra, v.v...
Cũng vậy, nếu muốn thấy được kiếp trước hay kiếp sau thì ta cũng phải chịu khó tu tập thiền định để chứng được thiên nhãn thông hoặc túc mạng thông. Đức Phật nhờ tu hành đắc đạo nên có thiên nhãn thông, túc mạng thông thấy được vô số kiếp quá khứ của mình và của người khác giống như người có máy video thâu được hình ảnh của mình và người. Điều cần nhấn mạnh là những đệ tử của ngài cũng chứng được và thấy được kiếp trước của mình. Đức Phật là bậc giác ngộ, đệ tử của ngài là những bậc thánh tăng A la Hán, không còn phiền não ô nhiễm, đều chứng được thiên nhãn thông và túc mạng thông. Là Phật tử, tuy nhục nhãn còn bị che lấp bởi vô minh phiền não nhưng chúng ta vẫn có thể tin lời các ngài là có kiếp trước kiếp sau, giống như chúng ta đang tin bác sĩ nói có vi trùng vậy.
Tại sao chúng ta không thấy được ngày hôm qua mà lại tin là có ngày hôm qua? Ta biết được có ngày hôm qua là nhờ ký ức. Qua một đêm ngủ thời gian không đủ dài để xóa mờ trí nhớ nên ta mới nhớ lại được. Nhưng làm sao ta nhớ lại được chính xác ta đã làm gì, nói gì, đi đâu với ai, chỗ nào 10, 20 năm về trước? Nếu không nhớ nổi việc cũ ngay trong kiếp này thì qua một lần chết và tái sinh, trải qua một thân ngũ uẩn khác (ví như một màn sương mù dày đặc) làm sao ta có thể nhớ lại được kiếp trước? Một người bị mổ tim hay mổ óc, bị chích thuốc mê, sau khi tỉnh dậy nhiều khi phải mất vài ngày mới hoàn hồn nhớ lại được mình là ai, đang ở đâu. Chưa kể những người bị bệnh Alzheimer hoàn toàn mất hết trí nhớ, đối với những người này thì ngày hôm qua còn không có huống chi năm trước hay kiếp trước. Với kỹ thuật văn minh hiện đại, chúng ta có thể chụp hình với máy ảnh hoặc thu hình với máy video. Những gì chúng ta đã chụp hoặc thu hình từ mười năm trước, hôm nay tuy không thấy, không nhớ, nhưng nếu cần thì chúng ta vẫn có thể lấy ra xem lại được vì tất cả hình ảnh đã được thâu vào băng video. Cũng vậy tất cả những gì chúng ta đã làm, đã sống đều được thu vào tâm thức. Tâm thức là một kho tàng chứa tất cả những kiếp sống của ta, trong Duy thức Học gọi là Tàng thức hay A lại Da (Alaya) thức. Người nào có khả năng đi vào vùng sâu thẳm của tâm (tức Tàng thức) thì có thể thấy lại hết những kiếp sống quá khứ của mình. Muốn đạt được khả năng này thì phải tu tập thiền định, hoặc ngày nay với phương pháp thôi miên (hypnotisme) người ta có thể trở lui về quá khứ hoặc kiếp này, hoặc nhiều lắm là một vài kiếp trước như trường hợp của ông Edgar Cayce. Chuyện tin có kiếp trước là một chuyện hiển nhiên đối với dân Tây Tạng, bởi vì các Lạt ma cao cấp, sau khi chết và tái sinh các ngài đều nhớ được kiếp trước của mình, đã từng là ai, ở đâu, sống trong tu viện nào, và nhận diện ra các đệ tử cũ của mình.
Chúng ta không thấy và không biết được có kiếp trước chỉ vì tâm thức của chúng ta chưa được học hỏi, tu tập và phát triển. Khoa học ngày nay cho biết là con người mới chỉ sử dụng được 10% bộ óc của mình mà thôi, còn lại 90% kia chưa được khai thác và biết đến. Vì vậy một người thông minh nên có tinh thần cởi mở để học hỏi và khám phá ra những điều mới lạ, thay vì cố chấp khép tâm lại, chỉ tin những gì mắt thấy, tai nghe, tay sờ mó được.
Thích Trí Siêu
Nguồn: Khí Công Y Đạo Việt Nam
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)