Thuốc
vờ - hiệu quả placebo
1.
Thuốc vờ - hiệu quả placebo
Người bệnh là nữ chủ nhân nhiều tiệm ‘Phở Gia
Truyền”, ngoài 50 tuổi.
Từ hơn hai tháng nay, bà than phiền luôn luôn bị
nhức đầu, đau bụng, ăn không tiêu và mau mệt mỏi, nhất là vào mỗi buổi sáng
trên đường lái xe tới tiệm.
Vị bác sĩ khám bệnh thực hiện đủ mọi thử nghiệm đều
không tìm thấy bất thường thể chất nào.
Trong khi hỏi về bệnh tình, bác sĩ nhớ là bà Lan có
cho hay công việc nhà, việc cửa hàng gặp mấy điều bất ổn. Chú đầu bếp chính
ngỏ ý muốn xin nghỉ, ra kinh doanh riêng. Một nhà hàng mới sắp khai trương
cách tiệm của bà có mươi căn phố. Vợ chồng đứa con gái có chuyện bất hòa, đe
dọa tới tình nghĩa phu thê sau hơn mười năm chung sống.
Bác sĩ nghĩ rằng bà Lan đang bị một chứng bệnh của
thế kỷ: stress. Stress gây ra nhiều thương tổn không những cho thân xác mà
còn cho cả tâm hồn.
Nếu nói cho bà Lan là không có bệnh gì, thì bà sẽ
không tin. Mà nói chỉ bị căng thẳng tinh thần thì chắc là bà sẽ phủ nhận, “bộ
bác sĩ bảo tôi khùng hay sao!?”.
Cho thuốc chống đau nhức thì lại sợ ảnh hưởng tới dạ
dày. Mà cho thuốc chữa dạ dày thì có khó khăn tiêu hóa gì đâu mà biên toa.
Bác sĩ bèn rất trang trọng đưa cho bà Lan một lọ thuốc viên mầu hồng, nói bà
uống theo lời dặn trong vài tuần lễ rồi cho biết kết quả. Đồng thời vị bác sĩ
cũng gợi ra một vài ý kiến để bà Lan cố gắng giải quyết ổn thỏa công việc làm
ăn và khó khăn của con gái.
Hai tuần sau, bà Lan điện thoại cho hay bệnh tình đã
khá hơn và hỏi có cần uống thêm thuốc mầu hồng. Bác sĩ nói uống hết số thuốc
đó đi và chắc là không cần thêm thuốc nữa đâu.
Cả bệnh nhân lẫn bác sĩ đều hài lòng.
Riêng vị bác sĩ thì cảm thấy vui vui vì giải quyết
được một trường hợp bệnh với lời khuyên tích cực và vài chục viên sinh tố mầu
hồng. Tất nhiên những viên sinh tố này không chữa được nhức đầu đau bụng của
nhà kinh doanh, nhưng đã góp phần giải quyết vấn đề.
Những viên “thuốc” không có hoạt chất, “vô thưởng vô phạt” tương tự như vậy được gọi là “Thuốc Vờ”,“Giả Dược”, “Thuốc Trơ”, tiếng Anh, tiếng Pháp gọi là “PLACEBO”. Placebo
Trong ngôn ngữ La Tinh, PLACEBO có nghĩa là “Tôi sẽ
hài lòng”.
Thánh Kinh có lời
cầu xin “Placebo Domino: in regione vivorum- I will please our Lord in the
country of the living”-Tôi sẽ làm hài lòng Chúa.
Placebo là một
hiện tượng khá phức tạp, được nghiên cứu từ nhiều thế kỷ với nhiều tranh
luận, bất đồng ý kiến về sự lợi hại và nguyên lý tác động.
Vào hạ bán thế kỷ
18, từ Placebo xâm nhập ngành y dược. Năm 1787, tự điển Quincy định nghĩa
placebo như một phương thức có chủ đích làm vui lòng người bệnh hơn là chữa
trị.
Từ điển y học
định nghĩa placebo là bất cứ chất xoàng xĩnh, vô dụng nào đó có hình dạng
dược phẩm được trao cho bệnh nhân với giới thiệu là có tác dụng chữa bệnh.
Theo nhiều tác
giả, placebo lúc đầu là để chỉ một chất hoặc một phương thức “trơ” (inert),
được dùng trong thử nghiệm lâm sàng hoặc trong y khoa học để kiểm chứng công
hiệu của một loại dược phẩm hoặc để làm dịu một bệnh.
Khi thử nghiệm,
một nhóm người được cho dùng dược phẩm thực, nhóm thứ hai nhận viên tương tự
nhưng không có hoạt chất. Nếu nhóm dùng thuốc có kết quả tốt hơn so với nhóm
kia thì thuốc có tác dụng trị bệnh. Người tham gia chương trình đều không
biết mình dùng chất gì. Đôi khi chính người điều khiển thử nghiệm cũng không
biết.
Thuốc “trơ”được
dùng cho những người luôn luôn than phiền đau ốm (bệnh tưởng -hypochondria),
luôn luôn đòi hỏi thuốc mà bác sĩ không tìm ra nguyên nhân, triệu chứng.
Hiện nay, hiệu
quả placebo được hiểu rộng rãi hơn và bao gồm tất cả các phương thức được áp
dụng để trị bệnh mặc dù từ bản chất chúng không có tác động nào. Đây có thể
là một viên đường, một cục kẹo, một dung dịch nước pha muối, đường, một bữa
ăn đặc biệt hoặc một phẫu thuật “cuội”.
Nghiên cứu về placebo
Đã có nhiều
nghiên cứu về hiệu quả của thuốc trơ.
Năm 1955, bác sĩ
chuyên khoa tê mê Henry K. Beecher tại Đại học Harvard, Boston đã phân tích
26 nghiên cứu về thuốc trơ và thấy 35% trong số 1,082 bệnh nhân bị đau nhức,
buồn rầu, đau bụng có đáp ứng thỏa mãn với loại thuốc vô thưởng vô phạt này.
Ông đã công bố kết quả trên Tạp san của Hội Y Học Hoa Kỳ dưới tiêu đề “The
Powerful Placebo”, được nhiều người tham khảo, nhắc nhở.
Năm 1960, một
nghiên cứu khác cho hay khi bệnh nhân uống một chất được nói là có tác dụng
kích thích thì huyết áp của họ lên cao, nhịp tim nhanh. Trái lại khi nói là
thuốc ngủ thì có phản ứng ngược lại.
Trên báo The New
York Times Magazine ngày 9 tháng 1 năm 2000, tác giả Margaret Talbot đã kể
lại kết quả nhiều quan sát về thuốc trơ, trong đó có trường hợp một số bệnh
nhân bị viêm đại tràng dùng thuốc vờ và 52% bệnh nhân cho biết họ cảm thấy
khá hơn.
Hai khoa học gia
Asbjorn Hrobjartsson và Peter C. Gotzsche phân tích 114 nghiên cứu từ năm
1946 tới 1998 với ba nhóm người có 40 loại bệnh khác nhau: nhóm 1 chữa bằng
thuốc đặc nhiệm cho bệnh, nhóm 2 chữa với chất trơ, nhóm 3 không thuốc không
giả dược. Kết quả là nhóm 3 có người cũng lành bệnh như nhóm thứ 2.
Một số nghiên cứu
cho hay, người bị nhức đầu, đau lưng, viêm khớp, trầm cảm nói có thể thuyên
giảm khi dùng giả dược. Hoặc placebo cũng có thể làm hạ cao huyết áp, nhiệt
độ trên da, nhịp tim, cholesterol trong máu.
Ngày 4 tháng 1,
2008, nghiên cứu do bác sĩ John Hickner cho hay 45% bác sĩ tại ba bệnh viện ở
Chicago đều cho bệnh nhân dùng giả dược và 95% các bác sĩ cho biết là bệnh
nhân thấy dấu hiệu bệnh giảm rất nhiều.
Placebo tác động ra sao?
Nguyên lý chính
xác của hiệu quả placebo chưa được biết rõ. Một số giả thuyết cho rằng
placebo có tác động sinh hóa và tâm lý.
Decartes (1596
A.D.-1650 A.D.) có nói “I think, there for, I am”- nghĩ sao, là vậy.
Đức Phật Thích Ca
(560B.C-480B.C.) cũng nói: “You are what you think, having become what you
though”. Tất cả đểu từ tâm trí mà ra.
Tương tự như vậy,
khi tiếp nhận một phương thức trị liệu nào đó, bệnh nhân đều ở trong tâm
trạng “mong đợi”(expectation) và hy vọng có một mầu nhiệm giúp họ hết bệnh.
Sự trông đợi này có thể thay đổi hành vi của họ, đồng thời cũng có thể tạo ra
vài thay đổi sinh hóa học trong cơ thể, giúp giảm triệu chứng bệnh. Và bệnh
nhân hài lòng, tương tự như niềm tin “cầu được, ước thấy”.
Theo Robert
DeLap, Giám đốc Nghiên cứu của Cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA): “Sự mong
chờ là yếu tố rất mạnh. Càng đặt nhiều tin tưởng vào một trị liệu thì càng
thấy trị liệu có vẻ hữu hiệu hơn”. Sự tin tưởng, hy vọng ở thuốc vờ có thể
khích lệ bệnh nhân thay đổi nếp sống, chịu khó chăm sóc sức khỏe, vận động
đều đặn, giữ gìn trong sự ăn uống.
Niềm hy vọng khỏi
cũng thay đổi sự cảm nhận với bệnh. Họ sẽ diễn tả tình trạng bệnh nhẹ hơn.
Nói chung, họ sẽ có nhiều ý nghĩ tích cực và ít ý nghĩ tiêu cực.
Tiêu cực khiến
người quá ám ảnh, tập trung vào dấu hiệu khó khăn của mình. Trong khi đó, sự
tích cực sẽ tạo ra động lực muốn thay đổi, đưa tới thay đổi sinh hóa trong cơ
thể, như là tăng chất giảm đau endorphins, tăng khả năng bảo vệ của hệ miễn
dịch, giảm chất gây căng corticosteroid. Endorphins mang tín hiệu thần kinh,
lưu hành trong máu, tới cơ quan nội tiết, hệ miễn dịch. Các cơ quan này lại
sản xuất ra một số hóa chất có tác dụng giảm dấu hiệu bệnh.
Theo nhiều tác
giả, đáp ứng của người bệnh với thuốc trơ cũng có thể là một phản xạ có điều
kiện, được huấn luyện, theo thói quen. Trước đây, được cho uống loại thuốc
thật thì thấy hết bệnh. Bây giờ cứ thấy có thuốc giống như vậy là đã cảm thấy
nhẹ bớt. Phản ứng này tương tự như con chó trong thử nghiệm của khoa học gia
Pavlov: khi cho ăn kèm theo tiếng chuông reo, chó nhỏ nước miếng. Lâu ngày,
chỉ nghe tiếng chuông là nước miếng con chó đã tiết ra, dù không có thức ăn.
Tâm lý gia Irving
Kirsch, Đại học Connecticut, cho rằng placebo là do “tin tưởng” ở sự điều trị
hoặc cảm giác dễ chịu chủ quan khi dùng một chất nào đó.
Giáo sư Michael
Jospe nhận thấy rằng khi dán một băng keo có một hình ảnh vui vui lên vết
thương của em bé, thì em bé cảm thấy ít đau hơn, dù hình này không có tác
dụng trị liệu nào.
Kỹ thuật chụp
hình ảnh X-quang não cho thấy sự suy nghĩ và sự tin tưởng không những ảnh
hưởng tới tâm trạng mà còn tạo ra sự thay đổi sinh hóa trong não bộ.
Theo nhà nghiên
cứu Arthur Shapiro, placebo có mục đích làm bệnh nhân yên tâm nhiều hơn là
trị bệnh vì:
-Bệnh có thể đột
nhiên hết sau khi lên cao điểm, đúng vào lúc dùng giả dược
-Bệnh tăng giảm
bất thường, dùng placebo đúng vào lúc bệnh thuyên giảm
-Bệnh khá hơn nhờ
khả năng tự chữa qua hệ miễn dịch.
Một bằng chứng là
bệnh cảm cúm nhiều khi không cần thuốc men mà chỉ cần nghỉ ngơi mươi ngày
cũng hết. Trong bệnh ban đỏ lupus, có nhiều thời kỳ bệnh thuyên giảm dù có
dùng thuốc hay không.
Có nhiều người,
chỉ mới gặp bác sĩ gia đình thân quen đã cảm thấy dễ chịu, vì họ tin tưởng ở
vị lương y này. Chỉ với một cử chỉ vỗ về thân thiện, một lời nói an ủi của
bác sĩ đôi khi cũng làm bệnh khá hơn vì làm giảm lo âu, khó khăn của người
bệnh.
Ngoài thuốc vờ,
còn có phẫu thuật trị liệu vờ (Sham surgery). Cách đây hơn 40 năm, bác sĩ
chuyên khoa tim Leonard Cobb tại Seattle thực hiện thử nghiệm rạch lồng ngực,
nối hai động mạch để tăng máu tới tim. Kết quả là 90% bệnh nhân cho hay bớt
đau ngực.Trong khi đó, một số bệnh nhân chỉ được rạch ngực mà không nối động
mạch cũng cảm thấy bớt bệnh.
Một câu hỏi được
nêu ra là nếu placebo hữu hiệu thì tại sao các bác sĩ không áp dụng trong trị
liệu. Và khi nào bác sĩ có thể cho rằng placebo là phương thức trị liệu tốt
cho bệnh nhân?
Thực tế ra, ngày
nay, vô tình hoặc hữu ý, nhiều bác sĩ cũng dùng placebo để trị bệnh. Chẳng hạn,
họ cho bệnh nhân bị cảm cúm uống kháng sinh, dù họ biết là kháng sinh không
có tác dụng tiêu diệt virus. Có phải vì trong lời thề Hippocrates có ghi thầy
thuốc “sẽ áp dụng tất cả kiến thức hiện có vào phương thức trị liệu tốt nhất
đối với bệnh nhân”.
Một triết gia
Pháp viết “Nghệ thuật trị bệnh là làm vui lòng bệnh nhân để thiên nhiên chữa
dứt bệnh”. Nhận xét này có liên hệ gì tới placebo không?
Liệu có hợp lý
khi y giới cho một loại thuốc biết chắc là không công hiệu
Hiệu quả thuốc vờ
thay đổi theo một vài hoàn cảnh:
-Thường thường,
viên thuốc vờ lớn công hiệu hơn viên cùng loại nhưng nhỏ; viên mầu hồng mầu
đỏ mạnh hơn viên mầu xanh; uống hai ba viên một lúc có hiệu quả hơn là uống
một viên.
-Thuốc chích hữu
hiệu hơn thuốc uống.
-Thái độ của bệnh
nhân: lòng tin tưởng, sự tự nguyện và hy vọng có kết quả tốt khiến cho hiệu
năng placebo cao hơn.
-Tương quan bác
sĩ-bệnh nhân: tin tưởng ở thầy thì bệnh nhân mau khỏi (phúc chủ lộc thầy),
bác sĩ cho thuốc thì tốt hơn là do người thường cho.
Hiệu quả placebo
cũng nhận nhiều phản bác.
-Sử gia tôn giáo
Lawrence Sullivan, Harvard Divinity School, có ý kiến rằng placebo là thùng
rác độc hại mà không ai muốn nhận. Ngay cả các “lang băm” cũng cảm thấy bị
nhục mạ khi có người nói “tài ba” trị bệnh của họ là do hiệu quả của thuốc
vờ.
-Kết quả nghiên
cứu của Asbjorn Hrobjartsson và Peter C. Gotzsche, Đan Mạch, công bố trên The
New England Journal of Medicine tháng 5 năm 2001 cho hay có rất ít bằng chứng
là placebo có tác dụng lâm sàng. Đi xa hơn, giáo sư Hrobjartsson còn kết luận
rằng hiệu quả placebo được công bố đều có một nhầm lẫn nào đó trong phương
thức nghiên cứu vì số người được thử nghiệm quá ít và nhiều khi bệnh nhân trả
lời cho vui lòng nhà nghiên cứu.
-Có thắc mắc rằng
hiệu quả placebo liệu còn tồn tại nếu liều lượng thuốc vờ tăng hoặc giảm, nếu
dùng trong thời gian lâu ngày hoặc nếu nói cho người bệnh biết là họ đang
dùng thuốc vờ.
Do đó, nhiều nhà
chuyên môn không đồng ý việc bác sĩ dùng thuốc vờ để trị bệnh. Theo họ, làm
như vậy là lừa dối bệnh nhân, chẳng khác chi ta khuyến khích người trồng nho
cho rượu giả vào chai, nhà báo tường thuật nhẹ hơn về một vấn đề thời sự quan
trọng.
Hội Y Học Hoa Kỳ
(AMA) khuyến cáo là các bác sĩ chỉ cho dùng giả dược khi bệnh nhân biết và
đồng ý, chứ không nên dùng để xoa dịu bệnh nhân.
Nocebo
Cùng với Placebo,
có Nocebo, được miêu tả vào thập niên 1960. Nocebo có nghĩa “Tôi sẽ gặp rủi
ro-I Shall be harmfull”..
Cô em song sinh
nhưng tiêu cực của bà chị tích cực Placebo được Walter Kennedy đặt tên Nocebo
vào năm 1961, để chỉ một cái gì đó được nói là đưa tới hậu quả xấu mà thực ra
“cái đó” không có khả năng gây ra xấu như vậy.
Theo nhiều tác giả, Placebo và nocebo đều là giả trị
liệu nhưng khác nhau ở sự giới thiệu và phản ứng. Placebo được giới thiệu một
cách tích cực khiến cho bệnh nhân trông chờ tác dụng tốt, còn Nocebo thì được
cho hay là có thể gây tác dụng xấu và bệnh nhân sẽ “báo cáo” là có chuyện xấu
xảy ra. Đó là nghĩ sao, ra vậy, từ “cái đầu” mà ra: cứ cho là mình gặp khó
khăn thì chuyện chẳng lành sẽ đến.
Trong dân gian, ta thường nghe nói “sợ muốn chết”,
sợ chết khiếp đi -scared to death- khi gặp một sự việc kinh hoàng. Trong
trường hợp mà sự việc xảy ra quá bất thình lình và quá khủng khiếp, nhiều
người có thể đứng tim mà chết, vì quá sợ.
Một hiện tượng tương tự: chuyện tin ở bùa ngải,
nguyền rủa chết (choc-woodo death-) của một vài sắc dân trên thế giới, rồi
bệnh hoạn, đau đớn, tử vong. Họ tự thuyết phục rằng sẽ có chuyện chẳng lành
xảy ra và rủi ro xảy ra thật.
Người Á châu có tin tưởng là người có mạng “hỏa” hay
thiệt mạng về bệnh tim còn mạng thổ thì hay bị ung thư hoặc tới năm tuổi thì
gặp nhiều xui xẻo, bệnh hoạn.
Arthur J. Barsky, bác sĩ Thần Kinh Tâm Trí tại
Boston, giải thích là những người này luôn luôn có thái độ tiêu cực, lo âu
đến nỗi phát bệnh.
Kết quả một nghiên công bố trong Tạp san Hội Y khoa
Hoa Kỳ (JAMA) năm 1996 cho biết với cùng rủi ro nếp sống, những phụ nữ cứ
nghĩ rằng mình dễ mắc bệnh tim thì bốn lần mắc bệnh tim hơn người vô tư, ít
lo nghĩ. Đây không phải là do ảnh hưởng xấu của môi trường, dinh dưỡng như
thuốc lá, chất béo, mập phì mà chỉ là do ám ảnh, nghĩ rằng mình đau thì mình
sẽ đau (Think sick, be sick).
Nhà dịch tễ học Robert A. Haln, Trung Tâm Kiểm Soát
Bệnh Hoa Kỳ (CDC) có ý kiến “Placebo làm dịu các triệu chứng bệnh bằng cách
tạo ra sự “trông chờ” khỏi bệnh, trong khi đó nocebo tác hại bằng cách tạo ra
sự trông chờ chuyện xấu”.
Giáo sư Hebert Benson, Đại học Harvard, duyệt lại
kết quả một số nghiên cứu, nhận thấy bệnh nhân được giải phẫu tim chữa bệnh
mà cứ có ý nghĩ là muốn đoàn tụ với người thân ở bên kia thế giới thì đều
được như ý muốn.
Ngoài ra khi đau ốm, con người có khuynh hướng để ý
quá nhiều tới cơ thể của mình. Thấy một dấu hiệu nhỏ, họ cứ suy diễn, gán
ghép tại đau cơ quan này, bộ phận kia hoặc do thuốc gây ra. Có người thường
xuyên đau nhức nhưng không quan tâm, chú ý. Chỉ sau khi uống một thứ thuốc
nào đó thì lại bảo đau nhức đó là do thuốc mà ra.Vì vậy bác sĩ Barsky nhắc
nhở bác sĩ nên để ý tới các than phiền vu vơ này trước khi cho thuốc hoặc đổi
thuốc.
Nocebo ít được giới y khoa để ý nghiên cứu mặc dù
danh từ này đã được đặt ra từ năm 1960. Chỉ có một số rất ít tài liệu y học
nói đến ảnh hưởng này. Lý do là các bác sĩ ngần ngại không muốn áp dụng, thử
nghiệm một hậu quả xấu trên người bệnh. Chữa bệnh là làm hết bệnh bây giờ lại
tạo ra ảnh hưởng xấu thì nghịch lý quá.
Vậy mà vào thập niên 1980, đã có một thử nghiệm với
34 sinh viên: họ được nói sẽ có một luồng điện chạy qua đầu và sẽ gây ra nhức
đầu, nhưng thực ra không có điện, vậy mà 2/3 sinh viên kêu nhức đầu. Hoặc
nhóm khác bị ngứa ngáy đối với một chất nói là gây dị ứng mà thực ra chỉ là
nước đường.
Kết luận
Tuy là trị liệu trơ, thuốc vờ nhưng nhiều khi cũng
có một vài công dụng. Placebo đã trải qua giai đoạn bị coi là ‘phỉnh gạt’ tới
giai đoạn hữu ích để phân biệt tính cách chuyên biệt và không chuyên biệt của
những hoạt chất trị liệu.
Gặp một bệnh nhân không dấu hiệu, triệu chứng nhưng
đòi hỏi thuốc thì chắc là nhiều vị lương y cũng nghĩ tới việc trao cho bệnh
nhân chục viên ‘thuốc’ vô thưởng vô phạt, để làm vui lòng con bệnh.
Và cũng để hy vọng, như các tác giả Petr Skrabanek
và James McCormick
đã viết trong tác phẩm Follies and Fallacies in
Medicine: “Sự tin tưởng của bác sĩ trong trị liệu cộng với niềm tin của bệnh
nhân đối với bác sĩ có tác động hỗ tương mạnh mẽ. Kết quả là một phương thức
trị liệu có thể bảo đảm giúp bệnh nhân cảm thấy dễ chịu hơn, đôi khi lành
hẳn”.
Vì ở đời, thực và giả, phúc và họa thường sánh đôi.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ
|