Ân Oán Cõi Đời
Tác giả: Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
(Tập san Phật Học Tịnh Quang CANADA
Số 18 Tết Nguyên Đán Nhâm Thìn 2-2012)
Số 18 Tết Nguyên Đán Nhâm Thìn 2-2012)
Trên cõi đời này, có rất nhiều nguyên nhân gây phiền não và khổ đau
cho mọi người. Một trong những nguyên nhân đó chính là: chuyện Ân Oán, tức là
chuyện ân nghĩa và chuyện oán thù trên cõi đời. Theo thói thường, con người
chóng quên chuyện ân nghĩa, nhưng chuyện oán thù thì nhớ đời đời, sống để dạ
chết mang theo! Có người quan niệm: Ân đền oán trả! Hoặc là: Mười năm sau báo
thù cũng chẳng muộn! Mười năm thù hận! Mối thù truyền kiếp! Kẻ thù không đội
trời chung! Có thù không báo không phải là người!
Một nguyên nhân khác cũng thường đem lại sự bất an trong nội tâm
của con người, cùng một nghĩa, hay tương đương, đó là: chuyện thương ghét. Con
người thường đem lòng thương yêu những người đem lại ích lợi, đem lại an vui
hạnh phúc cho mình và ghét bỏ những người gây ra thiệt hại, hoặc đem phiền não
khổ đau đến cho mình. Trên cõi đời này, con người thương yêu người khác thì rất
ít, nhưng ghét bỏ thì rất nhiều. Tại sao vậy?
Bởi vì, con người vốn có tự ái rất cao, coi trọng bản ngã, cho nên
chỉ cần một lời nói khó nghe, hoặc một việc làm bất như ý, con người chuyển đổi
từ thương yêu trở nên ghét bỏ, thậm chí oán hờn thù hận, một cách dễ dàng. Những
chuyện như vậy thường xảy ra trong xã hội, ngay cả trong gia đình cũng không
tránh khỏi. Bởi thế cho nên, phiền não khổ đau tràn lan khắp trên cõi đời này.
Chúng ta nên biết rằng: chuyện ân oán và chuyện thương ghét chính là những
nguyên nhân, dẫn dắt chúng sanh vào vòng sanh tử luân hồi, nhận chìm chúng sanh
trong biển khổ đau, không bao giờ dứt, nếu không biết tìm cách thoát ra.
Trong kinh sách, có câu:
Ái
hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba.
Dục thoát luân hồi khổ. Tảo cấp niệm Di Ðà.
Dục thoát luân hồi khổ. Tảo cấp niệm Di Ðà.
Nghĩa là:
Những chuyện yêu thương, những nỗi khổ đau trên thế gian, nhiều ví
như sông dài, như biển cả mênh mông, với hàng vạn ngọn sóng cao ngất, liên tiếp
đổ ập lên đầu con người, như muốn nhận chìm những tâm hồn yếu đuối, không có đủ
nghị lực vươn lên, để tự giải thoát khỏi sự đau khổ của kiếp luân hồi, để sống
một cuộc đời an nhiên tự tại. Nếu muốn xây dựng cuộc sống hiện đời được an lạc
và hạnh phúc, chúng ta phải gấp rút niệm Di Ðà, nghĩa là lập tức dừng nghiệp và
chuyển nghiệp, sống trở về với bản tâm thanh tịnh, cố gắng tìm hiểu cách ứng xử
với chuyện ân oán và tìm hiểu cách dẹp bỏ chuyện thương ghét.
* * *
Trong phạm vi bài này, chúng ta tìm hiểu chuyện ân nghĩa và oán
thù, hay chuyện thương yêu và ghét bỏ, qua giáo pháp của đạo Phật mà thôi. Trên
cõi đời này, có nhiều người làm ơn cho người khác, giúp đỡ một việc nào đó, từ
việc nhỏ đến việc lớn, vật chất cũng như tinh thần, chẳng hạn như tìm kiếm công
ăn việc làm, cho mượn một số tiền, đăng giúp một bài báo, viết giùm một lá thư,
nhắn tin hộ một chuyện, làm chủ hôn một đám cưới, rồi chấp chặt vào việc ơn
nghĩa đã làm, nghĩ rằng người kia phải có bổn phận luôn luôn nhớ ơn đã nhận,
cho nên có dịp thì kể lể công ơn, có dịp thì nhắc nhở tới hoài, khiến cho người
thọ nhận ơn đâm ra khó chịu, bực bội, tìm cách tránh né, không còn muốn gặp mặt
người đã làm ơn giúp đỡ mình trước kia nữa. Khi đó người đã ra ơn giúp đỡ,
chẳng những không nhận thấy lỗi lầm của mình, lại còn trách cứ người kia là đồ
vô ơn bạc nghĩa. Kết cuộc, tình cảm bị sứt mẻ, mối giao hảo bị cắt đứt, quan hệ
không còn tốt đẹp như xưa, không khí bắt đầu ngột ngạt khó thở, chiến tranh
nóng, chiến tranh lạnh bắt đầu, cả hai đều chìm đắm trong phiền não khổ đau,
không sao thoát ra nổi. Trong cuộc sống gia đình cũng vậy, nếu cha mẹ luôn luôn
kể lể công ơn nuôi dưỡng con cái, khổ nhọc thế này, đắng cay thế nọ, gian truân
thế kia, nhọc nhằn thế đấy, lặp đi lặp lại, quanh năm suốt tháng, khiến cho con
cái, bực bội khó chịu, đâm ra phản ứng, chẳng thèm chịu nghe. Quan niệm “dưỡng
nhi đãi lão” của đông phương ngày trước, tức là nuôi dưỡng con cái từ lúc còn
bé thơ, với tâm mong cầu đến ngày con khôn lớn, sẽ nuôi lại mình lúc tuổi già,
có lẽ không còn mấy thích hợp ở các xứ tây phương ngày nay. Nuôi con với tâm từ
bi thì được cảm ứng. Nuôi con với tâm mong cầu thì gặp phản ứng. Bậc làm cha
mẹ, phải biết hy sinh, nuôi con vì tình, vì nghĩa cao cả, không nên trả giá, kể
lể công ơn, như lời cổ nhơn, đã từng có dạy: “Thi ân bất cầu báo đáp”, chính là
nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
“Nhược
Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ
thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng.
Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng”.
Nghĩa là:
Nếu chúng ta không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả,
và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố
thí, nghĩa là bố thí với tâm lượng rộng lớn, không kỳ thị, không cố chấp, không
trụ tướng, không mong cầu được đền đáp, bất tùy phân biệt, bố thí chỉ vì ích
lợi của chúng sanh, không vì bất cứ điều gì khác, thì phước đức không thể nghĩ,
không thể bàn, không thể đo, không thể lường được. Tại sao như vậy? Bởi vì, tâm
lượng như vậy đồng với tâm Phật, không khác. Người làm ơn quên ngay chuyện đã
làm thì có phước báu vô cùng. Tuy nhiên, khi đã thọ nhận sự giúp đỡ, sự quan
tâm, sự chiếu cố, bất cứ từ đâu đến, bất cứ do ai làm, dù lớn lao hay nhỏ nhặt
đến đâu, người biết tu tâm dưỡng tánh, phải biết tri ân và báo ân, tức là biết
ơn và đền ơn. Một lời nói ân nghĩa chí tình, một lời khuyên lơn dịu dàng, trong
cơn nhiệt não, quí hơn bất cứ món quà nào khác, trong lúc bình thường. Miếng
khi đói bằng gói khi no. Trên cõi đời này, chuyện ân nghĩa biến thành oán thù
rất dễ dàng, như trở bàn tay. Ngược lại, chuyện oán thù trở thành ân nghĩa thực
là khó khăn vô cùng, chỉ có những bực thánh hiền, hoặc những người biết tu tâm
dưỡng tánh, tức là những người muốn sống an lạc hạnh phúc, mới có thể thực hành
được mà thôi.
Trong cuộc sống hằng ngày, nhứt là cuộc sống của người tại gia, rất
dễ đụng chạm, dễ sinh oán thù, từ những việc lớn, đến việc nhỏ mọn, từ việc cố
tình, đến việc vô ý. Chẳng hạn như việc, cạnh tranh nghề nghiệp, thường đưa đến
chỗ, thanh toán lẫn nhau, cá lớn nuốt cá bé, lấy thịt đè người, gài bẫy hại
nhau, chẳng kể thương đau, của bao người khác, tan nhà nát cửa, gia đình ly
tán, lắm khi tù tội, đến nỗi thiệt mạng. Chẳng hạn như việc, va chạm quyền lợi,
lỡ lời nói chơi, đụng chạm tự ái, nói năng vụng dại, chẳng biết tán dương, tâng
bốc mọi đường, đâm ra thù oán. Con người chất chứa, thù oán trong lòng, sâu như
lòng sông, rộng như biển cả, suốt đời quyết trả, những mối hận thù, làm sao
cuộc sống, yên vui cho được?
Nhiều khi có người, nói ra những lời, vô thưởng vô phạt, vô ý vô
tứ, chẳng có dụng tâm, chẳng có tà ý, chẳng ám chỉ ai, hoặc là chẳng may, trời
cho có tài, hơn nhiều người khác, khiến cho những kẻ, có tâm ganh tị, đố kỵ quá
cao, tự ái mấy sào, bảo sao chẳng tức, chẳng giận cho được. Con người thường
hay, trả thù báo oán, nên tìm mọi cách, trả đủa cho hơn, cho thỏa tâm tham, cho
vừa tâm sân, cho hợp tâm si, người cha bị giết, người con trả thù, giết hại
người kia, người con bên đó, lại cũng báo thù, thử hỏi như vậy: bao giờ oán
thù, mới được chấm dứt, cuộc đời mới được, bình yên vui vẻ?
Nếu người ta chửi mình một tiếng, mình trả lại một miếng, có khi
nặng hơn, thực ra quá dễ. Người ta mắng mình một tiếng, mình kham nhẫn được,
không trả đũa lại dưới bất cứ hình thức nào, mới thực là khó. Người ta gửi thư
chửi mình, lá thư bị quăng vào thùng rác là lẽ thường tình. Nhưng đừng lưu trữ
lời lẽ khó nghe đó trong kho tàng tâm thức của mình, tức là quên luôn đi, bỏ
qua luôn, không nhớ tới nữa, mới thực là khó. Tại sao như vậy? Bởi vì, lúc đó
công phu tu tập của mình đã khá lắm rồi, chứ không phải mình ngu đâu! Nếu mình
trả đủa, công bố lá thư, ưu tư trằn trọc, hằn học hỗn hào, nhào vô quyết chiến,
khiến cho lời qua, đâm ra tiếng lại, văng bút văng mực, khổ cực tấm thân, khởi
tâm nóng giận, đến chỗ đánh nhau, thưa gửi kiện tụng, kẻ bị nhức đầu, kẻ bị thương
đau, người vào ngồi khám, mới đúng thực là: cả đám ngu vậy! Trong kinh sách
thường gọi đó là: “vô minh”.
Cổ nhân có dạy: “Một sự nhịn chín sự lành”, chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
Lấy
oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan.
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan.
Bị người thù ghét, dù thực vô cớ, vô lý quá chừng, chúng ta cũng
đừng, khởi tâm tức giận, nên hiểu nguyên do, hiểu sâu nhân quả, chắc chắn phải
có, nhân duyên đời trước, duyên cớ đời này, chỉ vì chúng ta, không biết đó
thôi. Chẳng hạn như là: lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, cũng có thể là, nguyên
nhân của chuyện, thù ghét oán hờn. Cạnh tranh nghề nghiệp, hay tâm ganh tị, đố
kỵ gièm pha, đó cũng là những, nguyên nhân dễ hiểu. Tuy nhiên nếu ta, có dịp
giúp đỡ, được những người đó, trong lúc họ gặp, hoàn cảnh khó khăn, hay đang
hoạn nạn, chúng ta có nhiều, cơ hội hóa giải, thù hận oán hờn, biến thù thành
bạn. Như vậy chắc chắn, tốt đẹp hơn là, tiếp tục tranh chấp, thù hận người ta,
để rồi nơm nớp, sợ bị trả thù, phập phồng âu lo, đời sống bất an, không lúc nào
yên.
Có những người lầm lạc, sa chân vào vòng tội lỗi. Một thời gian
sau, nhờ gặp được thiện hữu tri thức, thầy lành bạn tốt, giúp đỡ hiểu biết
Chánh Pháp, giác ngộ được Chánh Ðạo, cố gắng quay về đường ngay nẽo thẳng.
Nhưng người đời vì tâm cố chấp, chấp chặt những oán thù xa xưa, nhứt quyết phục
thù trả hận, nhứt định không tha thứ, đòi hỏi phạm nhân phải chịu những hình
phạt tàn độc gấp trăm ngàn lần, phải chịu muôn ngàn đau đớn, phải chịu tan da
nát thịt, người đời mới vui lòng, hả dạ. Thử hỏi: như vậy ai tàn ác hơn ai, ai
có tâm độc ác hơn ai? Thử hỏi: ai đang muốn dừng nghiệp và chuyển nghiệp, còn
ai đang muốn tạo tội và tạo nghiệp?
Một con ngựa hoang muốn trở về quê xưa, phải tắm sông nhẫn nhục,
mới cảm thấy ân tình mở cửa ra với mình, sau đó mới có thể tắm trong dòng sông
mơ màng mát trong thơm ngọt. Tuy con ngựa hoang, quên thù oán căm, từ nơi tối
tăm, về miền tươi sáng, tới bến sông rồi, cởi mở cõi lòng, trông ra với đời,
nhưng đời không tha, không mở cõi lòng, từ bi hỷ xả, đón ngựa hoang về, lại cố
làm cho, ngựa hoang chết gục, một cách nhục nhằn, và trên lưng nó, hằn nguyên
vết thù!
Cõi đời này thường, tàn độc nhẫn tâm, thiện ác bất phân! Con người
thường hay, nhân danh công lý, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ Chánh pháp, đấu tranh
tự do, lo cho nhân quyền, đòi hỏi công bình, thực thi pháp trị, thực chất chỉ
là, gieo rắc khổ đau, cho bao kẻ khác, chan rải thù hận, khắp các nơi nơi.
Nếu như con người, biết rõ điều thiện, sẵn sàng tha thứ, cho các
người khác, cũng như đã từng, nhiều lần trong đời, đã tha thứ cho, chính bản
thân mình, cảnh giới thiên đàng, niết bàn cực lạc, chính là nơi đây!
Trên cõi đời này, cũng có những người, phát tâm xin tha, cho phạm
nhân đã, sát hại tàn nhẩn, thân nhân của mình, được khỏi tội chết. Tại sao như
vậy? Bởi vì người đó, thấm thía hoàn cảnh, thấu rõ cảm giác, của sự mất mát,
người thân thế nào, cho nên không muốn, gia đình người khác, dù là phạm nhân,
tức là kẻ thù, lâm vào cảnh ngộ, đau thương tương tự.
Thường thường chỉ có, những người đã từng, rơi vào hoàn cảnh, khốn
khổ khốn nạn, mới biết cảm thông, thương xót người khác. Những người có tâm,
đại từ đại bi, dường ấy mới có, cuộc sống an lạc, không có hận thù, không có
phiền não, và không khổ đau, đồng thời tạo được, an lạc hạnh phúc, cho người
chung quanh. Ðó là những người, thụ Bồ tát giới, hành Bồ tát đạo, sống với tâm
Phật, luôn luôn cảnh giác, không sống tâm ma. Ðó chính là những, người biết
sống với, Chân Tâm Phật Tánh, của chính thân mình.
Ngày xưa, vị Tổ sư thứ hai mươi bốn Aryasimha, trước khi bị vua Kế
Tân chém đầu, đã phát nguyện: Ngay khi đắc thành đạo quả sau này, người đầu
tiên tôi sẽ độ, chính là bệ hạ! Tại sao vậy? Bởi vì, có gặp tai nạn lớn lao,
tai họa khủng khiếp, thậm chí mất mạng, mới có thể chứng minh trình độ tu tập
của con người. Không phải chúng ta mong cầu khổ nạn đến để thử thách công phu
tu tập của mình. Tuy nhiên, một khi khổ nạn xảy ra, do hiểu sâu nhân quả, chúng
ta biết ngay: đã đến lúc phải trả nghiệp quả, từ nghiệp nhân, do chính mình tạo
tác, từ nhiều kiếp trước hoặc kiếp này. Cho nên, chúng ta vẫn giữ được thái độ
bình tĩnh thản nhiên, chấp nhận đền trả quả báo, mới là đáng quí, chứ van xin
cầu nguyện, có được gì đâu? Phân biệt thiện ác chỗ này chỉ làm loạn tâm mà
thôi!
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
Dù
trốn lánh lên non,
xuống biển hay vào hang,
nếu nghiệp báo đã mang,
không ai tránh thoát được.
xuống biển hay vào hang,
nếu nghiệp báo đã mang,
không ai tránh thoát được.
Người thế gian thường nói rằng: “trời kêu ai nấy dạ!”, hoặc “lưới
trời tuy thưa mà không lọt”, chính là nghĩa đó vậy.
Tuy nhiên có người thắc mắc: có thù không trả sao đáng làm người?
Chúng ta nên biết: Không có việc gì, trên thế gian này, tự nhiên sanh ra, hoặc
là xảy ra, ngoài luật nhân quả. Nói một cách khác:
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên sanh ra.
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên diệt đi. Có người ngày nay gặp
vạn sự may mắn, tốt đẹp yên vui, làm ăn phát đạt, thuận buồm xuôi gió, nhà cao
cửa rộng, con cháu hiếu thảo, bạn bè thân thiết, mọi người mến thương. Ðó chính
là phước báo, là kết quả của cái nghiệp nhân thiện lành, người đó gieo từ nhiều
kiếp trước, và trong kiếp này, cho nên bây giờ được hưởng kết quả tốt đẹp đó.
Có người ngày nay gặp nhiều xui xẻo, tai nạn liên miên, thậm chí
chết người, tàn tật suốt đời, trục trặc trắc trở, thưa gửi kiện tụng, làm ăn
thất bại, nợ nần tứ tung, nhà tan cửa nát, con cái hoang đàng, bạn bè phản
phúc, mọi người ghét bỏ. Ðó chính là nghiệp báo, là hậu quả của cái nghiệp nhân
bất thiện, người đó gieo từ nhiều kiếp trước, và trong kiếp này, cho nên bây
giờ lãnh đủ hậu quả không tốt đó.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
Dục
tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị.
Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.
Dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là:
Muốn biết kiếp trước mình đã làm gì, hãy nhìn việc mình đang nhận
hiện tại.
Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.
Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.
Nếu hôm nay mình dốt nát nghèo nàn khốn khổ, gặp tai nạn oán thù
liên miên, thì đó là hậu quả của cái nhân tạo ác nghiệp và không biết làm việc
phước thiện trước đây, chứ không có chuyện ân oán, thương ghét tùy tiện của
thượng đế nào cả. Nếu hôm nay mình thông minh, đủ ăn đủ mặc, gặp thực nhiều ân
đức, thì đó là kết quả của cái nhân tu tâm dưỡng tánh, tích phước tích đức
nhiều đời trước và đời này. Hôm nay mình được bình an là quả của cái nhân mình
không tạo sự bất an cho kẻ khác, dù đó là kẻ thù. Hôm nay mình được hạnh phúc
là quả của cái nhân mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác, dù đó là kẻ thù.
Người biết tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ được luật nhân quả một cách
chắc chắn, không bao giờ nghĩ đến chuyện trả thù, đừng nói đến chuyện thực hiện
việc trả thù. Tại sao vậy? Bởi vì, những oán thù mình gặp hôm nay, chính là hậu
quả của cái nhân xấu ác, do chính mình đã tạo đã gây ra trước đây, chứ chẳng
phải ai khác làm, bây giờ mình phải gánh chịu. Nếu không sáng tỏ được điều này,
con người cứ mãi chìm đắm trong oán thù khổ đau, trong vòng sinh tử luân hồi,
biết đến bao giờ mới thoát ra được? Chỉ cần giác ngộ, biết quay đầu lại, thì
bến bờ giải thoát là đây, phiền não khổ đau chấm dứt!
Chúng ta cũng không nên bi quan với số phận đã an bài, chấp nhận
cái gọi là định mệnh, hay định mạng, hay số mạng. Trái lại, chúng ta có thể
tích cực chuyển hóa cuộc đời của mình, sửa đổi cái nhân đã gieo, đã tạo trước
kia. Tùy theo “cái nhân” là hạt giống loại nào, sau khi được gieo xuống đất,
phải chờ đủ thời tiết nhân duyên, mới gặt hái “cái quả” của nó, có khi sớm tức
thời, cũng có khi trổ muộn. Có khi gặt phải quả chanh chua, nhưng có thể đem
bán đi, mua quả cam ngọt. Ðó là trường hợp chúng ta đã “lỡ” gieo nhân xấu, kiếp
trước hay kiếp này, nhưng nhờ gặp được thiện tri thức nhắc nhở, khai ngộ,
khuyến khích, chúng ta biết phục thiện, quay trở về chánh đạo, chuyển ba nghiệp
thân khẩu ý xấu ác, thành ba nghiệp thanh tịnh thiện lành, làm nhiều việc phước
đức, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta có thể gặt “quả tốt”, hay ít ra cũng giảm bớt
được “quả xấu”. Chẳng hạn như: chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Ví như
gieo nhân biết tiết kiệm, con người có thể gặt quả giàu có, hay ít ra cũng giảm
bớt được nợ xưa đó vậy. Ví như biết chịu khó học hành, cũng có ngày đỗ đạt,
thành danh, hay ít ra cũng bớt ngu dốt hơn trước, trí tuệ nhờ đó sáng tỏ hơn.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo”.
Nghĩa là tất cả mọi sự mọi việc trên thế gian đều do tâm của chúng
ta tạo ra. Muốn có quả thiên đàng trong tâm, chúng ta hãy gieo nhân từ bi hỷ
xả, bác ái vị tha, thi ân bố đức, dĩ ân báo oán. Gieo nhân ích kỷ, hận thù,
tham lam, sân hận, si mê, nhứt định gặt quả địa ngục trong tâm, phiền não khổ
đau, chắc chắn không sai, chỉ có sớm hay muộn mà thôi.
Trong sách có câu:
Thiên
đàng địa ngục hai bên.
Ai ngộ thì nhờ, ai mê thì sa.
Thiên đàng chẳng chứa quỉ ma.
Ai người tâm thiện tìm ra thiên đàng.
Ai ngộ thì nhờ, ai mê thì sa.
Thiên đàng chẳng chứa quỉ ma.
Ai người tâm thiện tìm ra thiên đàng.
Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật của cuộc đời là vô thường,
không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự nhiên sanh. Luật nhân quả áp
dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có
lửa thì có khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời mà
thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng hay địa ngục, tuy
là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở trong
thâm tâm của tất cả chúng ta mà thôi. Cũng ví như biển động hay biển lặng, đều
là hai trạng thái của biển mà thôi vậy. Có điều thắc mắc quan trọng, đó là:
“Con người thương ai nhiều nhứt và ghét ai nhiều nhứt?”.
Nếu như được hỏi: mình thương ai nhiều nhứt, thường thường con
người sẽ đáp: thương cha mẹ nhiều nhứt, hoặc thương vợ hay chồng nhiều nhứt,
hoặc thương con cái nhiều nhứt. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu những người thân
đó làm chuyện gì mích lòng trái ý, hoặc không có tình thương yêu đáp lại như
mình mong muốn, thậm chí còn đem lòng thương yêu kẻ nào khác, con người sẽ đổi
lòng thương yêu nhiều nhứt thành ra thù ghét nhiều nhứt! Như vậy, thực sự con
người trên thế gian này thương chính bản thân mình nhiều nhứt, chứ không phải
người nào khác!
Còn nếu như được hỏi: mình thù ghét ai nhiều nhứt, thường thường
con người sẽ đáp: thù kẻ này hại mình, ghét người kia hơn mình, nhiều nhứt. Tuy
nhiên, trên thực tế, con người thù ghét chính bản thân mình nhiều nhứt, chứ
không phải người nào khác! Tại sao vậy? Bởi vì, con người vì lòng tham lam vô
hạn, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả không tốt sẽ đến với mình. Bởi vì,
con người vì lòng sân hận vô biên, vẫn tạo tội tạo nghiệp, dù biết hậu quả hiểm
nguy sẽ đến với mình. Bởi vì, con người vì lòng si mê vô cùng, vẫn tạo tội tạo
nghiệp, dù biết hậu quả khó lường sẽ đến với mình. Nghĩa là con người thù ghét
chính bản thân mình nhiều nhứt, bởi vì sự vô minh từ nhiều đời nhiều kiếp, cho
nên luôn luôn duyên theo cảnh trần, tạo tội tạo nghiệp không ngừng, do đó lãnh
đủ nghiệp báo, hậu quả nặng nề, trầm luân sanh tử, mà vẫn không thức tỉnh tìm
đường giải thoát!
Trong sách có câu: “Giáo đa tất oán”. Nghĩa là dạy nhiều sinh thù oán. Trong đạo cũng như ngoài đời,
thường khi những người có lòng, muốn chỉ dạy nhiều cho thế hệ sau, muốn truyền
dạy tất cả những điều cần thiết, muốn những người nối dõi đạt được những thành
tích khả quan. Tuy nhiên, chính vì muốn quá nhiều như vậy, cho nên chỉ dạy quá
nhiều, kỷ luật nghiêm khắc, rèn luyện khổ công, kiểm soát chặt chẽ, sách tấn
thường xuyên, nhiều người thế hệ sau chẳng những đã không biết ơn, đã không
hiểu thấu tấm lòng của thế hệ trước, trái lại, còn sanh tâm oán trách, hờn
giận, tệ hơn nữa là, sanh tâm thù hận! Ðúng là “làm ơn mắc oán” đó vậy!
Cổ nhơn có dạy:
“Người chê ta mà chê phải tức là thầy ta. Người khen ta mà khen phải tức là bạn
ta”. Ðối với người đời,
quan niệm này quả là kim chỉ nam cho bực quân tử, trong việc xử thế ở đời. Tuy
nhiên, đối với người biết tu tâm dưỡng tánh, theo quan điểm của đạo Phật, người
khác khen hay chê, dù phải hay không phải, chúng ta đều tôn trọng họ như bực
thầy lành hoặc bạn tốt.
Còn hơn thế nữa, chúng ta nhìn họ như những bực bồ tát. Tại sao
vậy? Bởi vì, người giúp đỡ phương tiện cho mình tu tập, hoằng pháp lợi sanh,
cũng như người chuyên phá rối, bằng hành động cũng như bằng lời nói, đều là bực
“thiện hữu tri thức” của mình.
Hạng người thứ nhứt được ví như bồ tát thuận hạnh, chẳng hạn như
thầy dạy học hay bạn hữu hằng giúp đỡ chúng ta, thường ban cho những lời khen
thưởng thực tình, đúng lúc, để khuyến khích, động viên tinh thần, hoặc chê
trách hay quở phạt với tất cả tấm lòng từ bi, vì sự tiến bộ của chúng ta, chứ
không vì bản ngã của họ. Hạng người thứ hai được ví như bồ tát nghịch hạnh,
chẳng hạn như giám khảo trường thi hay trường đời. Những người này nhiều khi
khen chê không phải lúc, không phải vì thiện tâm, lại có dụng ý, ác tâm, không
phải vì chúng ta, mà vì bản ngã của họ.
Nhờ hạng người thứ nhứt, chúng ta có được sự hiểu biết, có được
kiến thức, đạt được giác ngộ, vững tâm tu học, biết đường ngay lẽ phải để noi
theo. Nhờ hạng người thứ hai, chúng ta có được bằng cấp ở đời, nếu vượt qua
được sự khảo hạch và thi đậu, hoặc chúng ta biết được trình độ tu tâm dưỡng
tánh của mình đã đến đâu, đạt được trình độ nào, chăn trâu tới giai đoạn thứ
mấy.
Trong các chùa luôn luôn có thờ tôn tượng của cả hai hạng người
trên đây: tượng đức Hộ Pháp và tượng Tiêu Diện Ðại Sĩ. Tượng đức Hộ Pháp với
khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, tay cầm kiếm trí tuệ cắt đứt phiền não, vượt qua
khổ đau, đạp lên trên con rắn độc có ba đầu dưới chân, biểu tượng của tam độc:
tham sân si, không phải là một vị, mà tượng trưng cho tất cả những người có
công với Chánh Pháp, là hạng người thứ nhứt nói trên.
Tiêu Diện Ðại Sĩ với khuôn mặt dữ dằn, lè lưỡi phun lửa máu, đầu có
đội ba ngọn núi, khẩu phún xuất hỏa, đầu thượng tam sơn, không phải là một vị,
mà tượng trưng cho tất cả những người có công giúp đỡ Chánh Pháp được sáng tỏ
hơn, là hạng người thứ hai nói trên. Bởi vậy cho nên, chúng ta luôn luôn chân
thành cảm niệm ơn đức của cả hai hạng người nói trên, đã giúp đỡ chúng ta tiến
tu trên mọi phương diện.
Theo kinh điển nhà Phật, sống ở trên cõi đời này, người nào cũng
thọ nhận bốn thứ ơn lớn, lúc nào cũng phải nên biết lo đền đáp, bằng sự cung
kính, cúng dường và phụng sự. Bốn thứ ơn lớn, cũng gọi là tứ trọng ân, đó là:
1. Ơn cha mẹ 2. Ơn chúng sanh 3. Ơn quốc gia 4. Ơn Tam Bảo.
1. Cha mẹ sanh thành dưỡng dục rất khổ công, cực nhọc, trong
nhiều năm tháng dài, chúng ta mới có được như ngày nay. Người biết tu tâm dưỡng
tánh, phải báo đáp ơn cha mẹ, bằng sự cung kính, phụng dưỡng vật chất cũng như
tinh thần, nhưng quan trọng hơn cả, chính là giúp đỡ cha mẹ hiểu biết Chánh
Pháp, sớm ngộ Chánh Ðạo, vĩnh viễn thoát ly phiền não khổ đau, sống đời an lạc
hạnh phúc. Chỉ vì bênh vực vợ con, bênh vực chồng con, hoặc chỉ vì một lời
khiển trách, một sự bất như ý, chẳng hạn như cha mẹ chia của cải không đồng đều
như ý muốn, nhiều người trên thế gian này phủi sạch tất cả những ân nghĩa của
cha mẹ từ xưa đến nay, từ cha bỏ mẹ, không nuôi không dưỡng, không thèm săn
sóc, không hề thăm viếng, không muốn nhìn nhận, đôi khi còn trở mặt oán thù,
thậm chí sát hại, tranh giành tài sản! Ðó là trọng tội hàng đầu trong ngũ
nghịch tội.
2. Chúng ta đang sống trong xã hội, tức là có vô số chúng sanh
sống chung quanh, giúp đỡ chúng ta đủ mọi phương diện, vật chất cũng như tinh
thần. Chẳng hạn như nhờ người nông dân chúng ta có cơm ăn, nhờ người công nhân
chúng ta có áo mặc, có xe đi, có đồ dùng, có nhà ở. Chẳng hạn như nhờ người
thầy thuốc, y tá, sức khỏe chúng ta được chăm sóc, nhờ người thầy giáo, kiến
thức chúng ta được mở mang, trí tuệ sáng suốt. Ðó là chưa kể trâu bò cày ruộng,
con ngựa kéo xe, con chó giữ nhà, lạc đà vận chuyển. Người biết tu tâm dưỡng
tánh, phải báo đáp ơn xã hội, bằng sự siêng năng làm việc, giúp người giúp đời,
làm tất cả mọi sự mọi việc ích lợi cho mọi người, không phung phí thực phẩm,
sản phẩm, của cải, vật dụng, dù do chính mình bỏ tiền ra mua. Tại sao vậy? Bởi
vì, đó là công lao của xã hội, và nhiều người khác đang thiếu thốn, nhiều chúng
sanh khác đang cần những thứ đó, dùng không hết thì đem cho, không nên phí của!
3. Chúng ta sống trong một quốc gia thái bình thạnh trị, có
nhiều phúc lợi xã hội, cơm no áo ấm, sung túc tiện nghi, an cư lạc nghiệp.
Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn quốc gia, bằng sự cố gắng làm một
người dân lương thiện, làm người có lương tâm chức nghiệp, góp phần xây dựng
đất nước, không phá rối trật tự trị an của xã hội, không gây đau khổ cho những
người khác sống chung quanh, không làm những chuyện lợi mình hại người, không
lợi dụng kẽ hở của luật pháp để hại người, kiếm tiền bạc triệu, sống cho sung
sướng, không viết thư rơi, không đâm bị thóc, không chọc bị gạo, không tạo
tranh chấp, không gây oán thù. Mình muốn sống đời an lạc hạnh phúc, nên giúp đỡ
người khác cũng sống an lạc hạnh phúc như mình. Nhờ đó tâm trí được thanh tịnh,
sống được an vui, thác về cõi lành, cực lạc thiên đàng, khỏi sợ địa ngục, không
cần chúc tụng, ở trên mặt báo!
4. Sau hết trên hết, những người trải đời, dù già hay trẻ,
thấy được vô thường, hiểu biết nhân quả, tội nghiệp phước báu, có được chánh
kiến, hành bát chánh đạo, do ơn Tam Bảo, chỉ dạy thực rành, giúp đỡ chúng sanh,
thoát ly sanh tử, luân hồi nghiệp báo, tránh khỏi khổ đau, hãy mau thức tỉnh,
tu tâm dưỡng tánh, đừng đợi đến ngày, nhắm mắt xuôi tay, chẳng may phải đọa,
vào ba đường ác, địa ngục ngạ quỉ, hoặc là súc sanh, không ai cứu được, dù có
niệm Phật, cho đủ mười tiếng, hoặc mười ngàn tiếng, cũng vậy mà thôi, đã quá
muộn rồi! Người biết tu tâm dưỡng tánh, phải báo đáp ơn Tam Bảo, bằng sự tinh
tấn tu tập, cung kính cúng dường, bằng cách dừng nghiệp và chuyển nghiệp, chấm
dứt tạo tội tạo nghiệp, bằng cách giúp đỡ người khác tu tâm dưỡng tánh, tự giác
giác tha, giác hạnh viên mãn.
Chúng ta thử suy gẫm câu chuyện sau đây:
Có một đàn bò đang đi trên đường vào lò sát sinh để bị giết làm
thịt. Những con bò đó vẫn báng nhau, húc nhau, chen nhau, lấn nhau, nghinh
nhau, nghịch nhau. Chúng không biết rồi đây, chỉ trong phút giây, cuộc đời của
chúng sẽ bị kết thúc thê thảm biết là dường nào. Chúng không biết gì cả, chỉ
biết đấu tranh, giành giựt, hơn thua, cho đến giây phút cuối cùng của mạng
sống.
Người đời thường nói: đồ ngu như bò! Tuy nhiên người đời có thông
minh hơn chăng? Thử xét cõi đời được bao năm, mà con người vẫn sống trong cơn
mê: bon chen, đấu tranh, giành giựt, chèn ép, chà đạp, chửi bới, thưa gửi, kiện
tụng, đụng độ, hơn thua nhau từng lời nói, ghìm nhau từng cử chỉ, thù oán nhau
từng hành động, chấp chặt từng chuyện làm ơn nhỏ nhặt, chất chứa từng chuyện
thù oán lặt vặt, đến chuyện hận thù không đội trời chung. Con người thường có
tâm chấp ngã, cho nên ích kỷ, chỉ muốn chính mình, gia đình mình, bà con mình,
giòng họ mình, tổ chức mình, dân tộc mình, bất cứ cái gì dính tới mình, đều
đứng hạng nhứt! Ngoài ra thì mặc kệ, sống chết mặc bây, tụi này sung sướng, như
vậy đủ rồi! Thực là hởi ôi, cõi đời nổi trôi, vô cùng vô tận!
* * *
Tóm lại, chuyện ân oán là chuyện dài của con người, của cõi đời
phiền não khổ đau, nói mãi không bao giờ cùng. Cho dù suốt đời, chúng ta luôn
luôn, làm chuyện ân nghĩa, cho bất cứ ai, nhưng nếu chỉ cần, một lần mà thôi,
từ chối giúp người, lập tức chúng ta, gặp ngay oán thù! Người đời phủi sạch tất
cả những gì tốt đẹp người khác đã làm cho họ, trong suốt một khoảng thời gian
dài, chỉ ghi nhớ một việc bất như ý sau cùng mà thôi, xong rồi dứt đẹp!
Trên cõi đời này, chữ “Ân” ít gặp, chữ “Oán” khắp nơi. Chính vì
những quan niệm như vậy, cho nên con người luôn luôn lăn lộn trong sanh tử luân
hồi, trong phiền não khổ đau, vay trả trả vay, triền miên suốt đời, không bao
giờ dứt.
Trong kinh sách, Chư Tổ có dạy:
Tác
hữu nghĩa sự. Thị tỉnh ngộ tâm.
Tác vô nghĩa sự. Thị cuồng loạn tâm.
Tác vô nghĩa sự. Thị cuồng loạn tâm.
Cuồng
loạn tùy tình niệm. Lâm chung bị nghiệp khiên.
Tỉnh ngộ bất do tình. Lâm chung năng chuyển nghiệp
Tỉnh ngộ bất do tình. Lâm chung năng chuyển nghiệp
Nghĩa là:
Làm việc có nghĩa, đem lại an lạc hạnh phúc, cho mình và cho người.
Là tâm tỉnh ngộ.
Làm việc vô nghĩa, đem lại phiền não khổ đau, lợi mình hại người. Là tâm cuồng loạn.
Làm việc vô nghĩa, đem lại phiền não khổ đau, lợi mình hại người. Là tâm cuồng loạn.
Cuồng loạn theo tình niệm: thương ghét ân oán. Lâm chung bị nghiệp
lôi.
Tỉnh ngộ không theo tình, tâm bình tĩnh thản nhiên. Lâm chung chuyển được nghiệp.
Tỉnh ngộ không theo tình, tâm bình tĩnh thản nhiên. Lâm chung chuyển được nghiệp.
Nguồn: Khí Công Y Đạo Việt Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét